Mesotherapy da mặt bằng Isolagen và các yếu tố tăng trưởng

Bài viết Mesotherapy da mặt bằng Isolagen và các yếu tố tăng trưởng được biên dịch bởi Bs Phạm Tăng Tùng từ Sách “ATLAS MESOTHERAPY – MESOTHERAPY TRONG TRẺ HÓA DA” của tác giả Sandra Swimberghe.

1. ISOLAGEN

Nguyên bào sợi tự thân nuôi cấy (Isolagen) là liệu pháp tế bào sống nhằm chỉnh sửa nếp nhăn và sẹo. Điều trị bằng nguyên bào sợi tự thân nuôi cấu có thể giúp phục hồi lại lượng nguyên bào sợi bị sụt giảm do tổn thương ánh sáng, lão hóa, và sẹo. Tác dụng của việc bổ sung nguyên bào sợi tự thân vào da đã được điều tra từ năm 1995 [1].

Kỹ thuật này bắt đầu bằng bấm sinh thiết khoảng 3 mm vùng sau dái tai (hình 9.1). Mẫu sinh thiết lấy được sẽ được đặt vào ống vận chuyển trung gian và được giữ lạnh bằng nước đá (hình 9.2). Vùng sinh thiết được đóng lại bằng chỉ hoặc keo dán phẫn thuật và mẫu sinh thiết sẽ được vận chuyển đến phòng lab nơi các tế bào được nhân lên bằng kĩ thuật cấy mô độc quyền. Sau 12 và 16 tuần, nguyên bào sợi nuôi cấy được vận chuyển trở lại cho bác sĩ điều trị và phải được sử dụng trong vòng 24 giờ vận chuyển để đảm bảo các tế bào nuôi cấy sống sót 95%. Khoảng cách chuẩn giữa các lần điều trị đó là từ 30 đến 45 ngày.

Hình 9.1 Bấm sinh thiết 3 mm vùng sau dái tai
Hình 9.1 Bấm sinh thiết 3 mm vùng sau dái tai
Hình 9.2 Mẫu sinh thiết được đặt trong một ống vận chuyển trung gian đặc biệt, được giữ lạnh bằng nước đá.
Hình 9.2 Mẫu sinh thiết được đặt trong một ống vận chuyển trung gian đặc biệt, được giữ lạnh bằng nước đá.

Trong liệu trình điều trị 2 vùng (two-zone treatment), 20 x 106 nguyên bào sợi được tiêm cho mỗi lần trong vùng được lựa chọn điều trị. Trong điều trị toàn mặt (full-face treatment), cần khoảng 30 x 106 nguyên bào sợi để phủ được hầu hết những vùng quan trọng trên khuôn mặt. Ngoài ra những vùng phụ như vùng cổ, vùng hở cổ, và bàn tay cũng có thể điều trị trong một lượt điều trị khác. Nên bôi tê vùng điều trị để giảm mức độ khó chịu khi tiến hành tiêm. 4 xi lanh BD microfine 1.2 ml/ xi lanh được sử dụng để hút và tiêm tế bào.

Có 2 kĩ thuật tiêm có thể được sử dụng (hoặc phối hợp cả hai) [6]. Trong kĩ thuật threading (vừa rút vừa tiêm), toàn bộ chiều dài của kim được luồn vào da và tế bào sẽ được tiêm trong khi rút chậm kim ra khỏi da (hình 9.3). Trong kĩ thuật này, luồn kim khoảng 10 mm vào lớp nông (lớp bì nhú) của nếp nhăn theo chiều dọc và từ phía bên của nếp nhăn, tiêm 0.05 ml Isolagen trên mỗi đoạn tương ứng với chiều dài kim.

Hình 9.3 Kĩ thuật threading (vừa rút vừa tiêm).
Hình 9.3 Kĩ thuật threading (vừa rút vừa tiêm).

Trong kỹ thuật tiêm nhiều điểm, tiến hành tiêm nhiều hàng dọc theo chiều dài của nếp nhăn/rãnh hoặc vùng da được điều trị. Nên tiêm theo phác đồ 0.05 ml mỗi 2 cm2.

Nên đắp nước đá sau tiêm để giảm đỏ và sưng.

Isolagen đã được chứng minh là có hiệu quả trong trẻ hóa da cũng như giúp làm giảm các rãnh, nếp nhăn vùng mặt và sẹo trứng cá/chấn thương. Các rãnh quanh miệng và quanh mắt đáp ứng đặc biệt tốt đối với phương pháp này (Hình 9.4-9.7). Trong các thử nghiệm lâm sàng ở Mỹ, 92 % bệnh nhân được điều trị thành công bằng Isolagen. Bệnh nhân sẽ tiếp tục cảm nhận được sự cải thiện dần dần trong liều trình điều trị 12-24 tháng (hình 9.8).

Hình 9.4 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.4 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.5 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.5 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.6 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.6 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.7 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.7 Bệnh nhân (a) trước và (b) sau điều trị.
Hình 9.8 (a) Trước điều trị, (b) 4 tháng sau điều trị, và (c) 7 năm sau điều trị.
Hình 9.8 (a) Trước điều trị, (b) 4 tháng sau điều trị, và (c) 7 năm sau điều trị.

Phương pháp chỉnh sửa này có tác dụng kéo dài vì hệ thống miễn dịch của bệnh nhân nhận diện các tế bào được tiêm vào như là các tế bào của cơ thể và không tái hấp thu hoặc thải trừ chúng như cách mà hệ thống này đáp ứng với các chất ngoại lai.

Không có các biến chứng nặng được bào cáo trong các thử nghiệm lâm sàng với Isolagen. Các phản ứng nhẹ khi tiêm gồm sưng và đỏ, những phản ứng này sẽ biến mất trong vài ngày. Do Isolagen là các tế bào tự thân nên làm giảm tối đa khả năng dị ứng. Không có sự hiện diện các chất nguồn gốc động vật hoặc chất ngoại lai trong ống lạnh chứa tế bào bệnh nhân.

2. CÁC YẾU TỐ TĂNG TRƯỞNG

Da là một cơ quan sống, thực hiện các chứng năng động như tăng trưởng, sửa chửa, và bảo dưỡng. Để duy trì các hoạt động này, da cần các cytokines và các yếu tố tăng trưởng như là các chất điều tiết chủ chốt. Nhìn chung, mức độ biểu hiện của các cytokines và yếu tố tăng trưởng cũng như nồng độ hormone tăng trưởng giảm dần theo mức độ lão hóa da. Khi đưa các cytokines và các yếu tố tăng trưởng vào bên trong da bị lão hóa, thì những nhân tố này có thể giúp cải thiện độ đàn hồi và giúp trẻ hóa da. Các yếu tố tăng trưởng và cytokines người ngày nay có thể được tổng hợp bằng kĩ thuật tái tổ hợp tương tự như quá trình tạo ra hormone tăng trưởng, insulin, oxytocin và erythropoietin. Những sản phẩm này hiện có sẵn ở nhiều dạng mỹ phẩm cũng như dạng khô lạnh để sử dụng trong phương pháp mesotherapy mặt. Sau đây là những sản phẩm quan trọng nhất được sử dụng.

2.1. EGF (epidermal growth factor- yếu tố tăng trưởng thượng bì)

EGF gồm 53 amino acid và có thể tìm thấy với nhiều nồng độ khác nhau trong sữa, nước bọt, nước tiểu, huyết tương và cũng như trong hầu hết các chất dịch của cơ thể. Protein này thúc đẩy tổng hợp mạch máu quanh vùng tổn thương và làm tăng tiết các yếu tố thúc đẩy trẻ hóa. EGF thúc đẩy sự tăng sinh của nguyên bào sợi (loại tế bào tổng hợp collagen và elastin), và sự tăng trưởng tế bào thượng bì bằng cách thúc đẩy các tế bào này tiến hành nguyên phân.

EGF tạo ra sự tổng hợp sinh học của hyaluronic acid thông qua quá trình tương tác với yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản (xem bên dưới). Chất này kiểm soát sự sản sinh của hầu hết các cytokines hoạt động trên da và ảnh hưởng để sự tăng sinh và biệt hóa của các tế bào bằng cách kiểm soát thời gian sản sinh của mỗi loại cytokine.

2.2. bFGF (basic fibroblast growth factor- yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản)

bFGF kích thích sự tăng trưởng và phân chia của nguyên bào sợi, tế bào thần kinh, tế bào nội mạch, tế bào sừng, tế bào sắc tố, tế bào sụn, nguyên bào xơ cơ, nguyên bào xương, và nhiều loại tế bào khác, và đặc biệt giúp bảo vệ tế bào thần kinh. Chất này làm tăng tính đàn hồi của da và làm trơn láng các nếp nhăn bằng cách tăng cường tổng hợp sinh học các sợi collagen và elastin. bFGF có thể làm tăng sự tổng hợp sinh học của hyaluronic acid khi tương tác với EGF và yếu tố tăng trưởng giống insulin I (IGF-I).

2.3. IGF-I (insulin-like growth factor I- yếu tố tăng trưởng giống insulin I)

IGF-I là một hormone polypeptide chuỗi đơn 7.6 kDa có cấu trúc tương tự với proinsulin. Chất này liên quan đến sự tạo xương, cơ, mô thần kinh, và tăng cường sự tái sinh của các tế bào bị tổn thương. Chất này còn thúc đẩy quá trình tổng hợp sinh học của hyaluronic acid.

2.4. TRX (thioredoxin)

TRX là một chất chống oxy hóa mạnh. Chất này ảnh hưởng đến sự tăng sinh của tế bào bằng cách kiểm soát khả năng gắn vào DNA của các yếu tố sao mã. Ngoài ra TRX còn làm tăng biểu hiện của IL-8 và các cytokines khác.

2.5. Cách sử dụng các yếu tố tăng trưởng

Trong mesotherapy mặt, chúng ta sử dụng hỗn hợp (cock- tails) của nhiều yếu tố tăng trưởng- ví dụ như một dung dịch chứa:

  • EGF
  • bFGF
  • IGF-I
  • TRX
  • Copper peptide
  • Multivitamins và amino acids

Các loại dung dịch này phải được cất giữ trong tủ lạnh và sử dụng trong vài ngày sau khi mở nắp. Có thể trộn chúng với li- docaine hoặc các dẫn xuất. Trong y văn có rất nhiều phác đồ khác nhau tùy thuộc vào loại sản phẩm được sử dụng (ví dụ: 1 tuần một lần trong 4-5 tuần, sau đó 2 tuần một lần trong 2-3 tháng và 1-2 tháng một lần)

Các yếu tố tăng trưởng có thể được thêm vào các sản phẩm meso mặt khác để làm tăng hiệu quả điều trị. Kết quả điều trị rất khác nhau, từ những sự cải thiện kín đáo cho đến cải thiện ở mức độ trung bình, và không có sự đồng thuận về sản phẩm, phác đồ điều trị, hay hiệu quả nào trong y văn.

3. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Boss WK jr, Usal H, Chernoff G, et al. Autologous cultured fibro- blasts as cellular therapy in plastic surgery. Clin Plast Surg North Am 2000;27:613–26.

4. LƯU Ý

Tại thời điểm chương này được viết, chi nhánh Isolagen tại Anh đã đóng cửa do chi phí điều trị quá cao. Công ty Isolagen tại Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện điều trị trên bệnh nhân, nhưng sẽ chủ yếu tập trung vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Phương pháp điều trị này sẽ sớm phổ biến trên toàn thế giới tại một thời điểm nào đó trong tương lai, tuy nhiên hiện tại không phải là thời điểm của phương pháp này.

Tham khảo thêm một số bài viết cùng chủ đề

Ngày viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *