Đánh giá hiệu quả trẻ hóa da của Mesotherapy bằng siêu âm

Bài viết Đánh giá hiệu quả trẻ hóa da của Mesotherapy bằng siêu âm được biên dịch bởi Bs Phạm Tăng Tùng từ Sách “ATLAS MESOTHERAPY – MESOTHERAPY TRONG TRẺ HÓA DA”

1. Sơ lược về siêu âm da

Siêu âm là một kĩ thuật không xâm lấn dựa trên các thành phần vang âm khác nhau của mô sinh học [1,2]. Thiết bị siêu âm gồm một đầu dò siêu âm, một hệ thống xử lí hình ảnh, và một màn hình. Đầu dò phát ra các sóng siêu âm truyền vào mô, tại mô sóng siêu âm được phản xạ hoặc khúc xạ theo định luật bề mặt giữa các cấu trúc có trở kháng âm học khác nhau, sau đó phân tích sóng quay trở lại đầu dò [1].

2. Cách đánh giá hiệu quả của Mesotherapy bằng siêu âm

Điển hình, các tín hiệu echo (dội lại) được hiển thị ở dạng biểu đồ một chiều (A-mode) hoặc hình ảnh hai chiều (B-mode). Thiết bị sử dụng tần số từ 20 MHz trở lên là loại thiết bị tốt nhất để siêu âm da. Khi sử dụng hình ảnh 2 chiều (B-mode) sẽ thấy được phản âm thượng bì, lớp bì, và lớp hạ bị (hình 8.1) [1,2].

Hình 8.1 Hình ảnh da bình thường khi siêu âm tần số 20 MHz. M, màng đầu dò; E, echo thượng bì; D, lớp bì; SC, lớp hạ bì
Hình 8.1 Hình ảnh da bình thường khi siêu âm tần số 20 MHz. M, màng đầu dò; E, echo thượng bì; D, lớp bì; SC, lớp hạ bì

Echo thượng bì là một dải phản xạ âm mạnh, tương ứng với lớp sừng thượng bì, lớp này đóng vai trò là hàng rào ngăn cản nước. Bề mặt phân cách giữa thượng bì và bì không được xác định rõ. Lớp bì ít phản âm hơn so với lớp echo thượng bì và có mức độ phản âm không đồng nhất. Echo (phản âm) lớp bì tăng là do sự phản xạ sóng siêu âm từ mặt cắt giữa các sợi collagen với chất nền gian bào và các tế bào xung quanh. Khoảng trống hạ bì bình thường phản xạ âm yếu hoặc thậm chí không phản xạ âm, do đó mặt cắt của lớp này với lớp bì thường rõ.

Siêu âm da có rất nhiều ứng dụng trong chuyên ngành da liễu lâm sàng và nghiên cứu [1,2]. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để đánh giá độ dày của u da (ví dụ: ung thư tế bào đáy và ung thư tế bào hắc tố). Các ứng dụng của siêu âm trong nghiên cứu gồm xơ cứng bì (scleroderma), vảy nến (psoriasis), lão hóa da và lão hóa ánh sáng (photoaging).

Lão hóa da là sự phối hợp giữa quá trình lão hóa nội sinh và quá trình lão hóa do các yếu tố môi trường mà chủ yếu là do tiếp xúc với tia UV của ánh sáng mặt trời dẫn đến nhiều sự thay đổi trên da như thoái hóa collagen, thoái hóa mô đàn hồi, xuất hiện các rảnh nhỏ và nếp nhăn.

Siêu âm da đã được sử dụng rộng rãi để quan sát và định lượng mức độ thay đổi của da theo độ tuổi. Năm 1989, de Rigal và các cộng sự của mình [3] đã xác định được một dải cấu trúc echo thấp được gọi là dải echo thấp dưới thượng bì (SLEB-subepider- mal low-echogenic band) (hình 8.2) nằm ngay bên dưới lớp echo thượng bì của da lão hóa. Họ cũng chỉ ra rằng độ dày dải SLEB tăng theo tuổi và cho rằng có thể sử dụng SLEB như là một maker của lão hóa. Ngoài ra, bằng chứng về độ dày của dải SLEB ở mặt lưng cẳng tay dày hơn so với mặt bụng cũng cho thấy SLEB có liên quan chặt chẽ với quá trình lão hóa ánh sáng. Sự xuất hiện của dải SLEB trong da bị lão hóa ánh sáng cũng đã được xác nhận bởi nhiều ng- hiên cứu khác [4-7].

Hình 8.2 Hình ảnh siêu âm điển hình của dải echo thấp dưới thượng bì (SLEB) (S) nằm ngay bên dưới lớp echo thượng bì (E).
Hình 8.2 Hình ảnh siêu âm điển hình của dải echo thấp dưới thượng bì (SLEB) (S) nằm ngay bên dưới lớp echo thượng bì (E).

Mesotherapy là phương pháp hiện nay đang được sử dụng trong ngành da liễu thẩm mỹ. Đây là kĩ thuật xâm lấn tối thiểu và không phải là kĩ thuật làm đầy mô, nhằm đưa các chất có hoạt tính sinh học vào da thông qua nhiều mũi tiêm vào da. Những hoạt chất này thúc đẩy “sự trẻ hóa” bằng cách tăng khả năng giữ nước (hy- drat hóa) và tái tạo môi trường thuận lợi giúp tăng cường hoạt hóa nguyên bào sợi, tăng cường sự trao đổi, tương tác giữa các tế bào và chất nền ngoại bào [8]. Nhìn chung, thủ thuật này cần phải được lặp lại với khoảng cách điều trị từ 2 tuần đến 2 tháng trong một vài tháng. Tuy nhiên, hiện chưa có một phác đồ cụ thể nào cho mesotherapy và nên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau [9]. Hoạt chất meso được sử dụng nhiều nhất là hyaluronic acid (HA) dạng dung dịch. Ngoài ra, có thể thêm vitamin và chất khoáng vào dung dịch HA [8,9].

3. Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của Mesotherapy

Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu sơ bộ để kiểm tra hiệu quả của siêu âm trong đánh giá sự thay đổi của da sau meso- therapy.

Hai bệnh nhân nữ 64 và 58 tuổi với các dấu hiệu lão hóa da mức độ trung bình ở mặt lưng bàn tay đã được điều trị bằng nhiều mũi tiêm meso chứa HA ổn định (không phải HA từ động vật) có nồng độ 20mg/ml (Restylane Vital) tại thời điểm 0, 2, và 4 tuần. Siêu âm đánh giá được thực hiện trong mỗi lần điều trị và 7 ngày sau đó. Về cơ bản, hình ảnh siêu âm đều cho thấy có sự hiện diện của SLEB ở cả hai bệnh nhân (Hình 8.3). Sau 5 tuần, có sự gia tăng mật độ echo trên siêu âm ở cả hai bệnh nhân (hình 8.4). Sau điều trị, cả hai bệnh nhân đều có kết cấu da tốt hơn. Quá trình theo dõi sau đó vẫn cho thấy có sự thay đổi tích cực. Ngoài ra, siêu âm đánh giá cũng cung cấp một số thông tin hữu ích. Ngay sau khi tiêm HA, hình ảnh siêu âm cho thấy có sự biến mất của các cấu trúc bình thường của da do sự hiện diện của các sẩn phù nhỏ sau vi tiêm (hình 8.5). Hiện tượng này được quan sát thấy trong mỗi lần điều trị, và cấu trúc của da sẽ trở về bình thường sau 4-6 ngày sau điều trị. Sự gia tăng mật độ echo của dải SLEB vào cuối đợt điều trị theo chúng tôi là bằng chứng cho thấy sự tăng mật độ collagen ở da có liên quan đến quá trình điều trị.

Hình 8.3 Sự hiện diện của SLEB ở mặt lưng bàn tay
Hình 8.3 Sự hiện diện của SLEB ở mặt lưng bàn tay
Hình 8.4 Bằng chứng về sự gia tăng echo dải SLEB sau 5 tuần điều trị bằng phương pháp mesother- apy
Hình 8.4 Bằng chứng về sự gia tăng echo dải SLEB sau 5 tuần điều trị bằng phương
pháp mesother- apy
Hình 8.5 Sự vắng mặt của các cấu trúc bình thường của da do sự hiện diện của các sẩn phù nhỏ ngay sau vi tiêm.
Hình 8.5 Sự vắng mặt của các cấu trúc bình thường của da do sự hiện diện của các sẩn phù nhỏ ngay sau vi tiêm.

Những kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh được hiệu quả của phương pháp mesotherapy HA trên da lão hóa thông qua siêu âm đánh giá. Những nghiên cứu tiếp theo có thể sẽ đánh giá thời gian tồn tại của những thay đổi này sau khi ngưng điều trị. Cần có sự theo dõi bệnh nhân chính xác và nghiên cứu trên số lượng bệnh nhân lớn để củng cố cho những kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi.

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Jemec GBE, Gniadecka M, Ulrich J. Ultrasound in dermatology. Eur J Dermatol 2000;10:492–7.
  2. Rallan D, Harland CC. Ultrasound in dermatology – basic princi- ples and Clin Exp Dermatol 2003;28:632–8.
  3. de Rigal J, Escoffer C, Querleux B, et al. Assessment of aging of the human skin by in vivo ultrasonic imaging. J Invest Dermatol 1989;93:621–4.
  4. Gniadecka M, Jemec GBE. Quantitative evaluation of chronolog- ical ageing and photoageing in vivo: studies on skin echogenicity and Br J Dermatol 1998;139:815–21.
  5. Gniadecka Effects of ageing on dermal echogenicity. Skin Res Tech 2001;7:204–7.
  6. Sandby-Moller J, Wulf Ultrasonographic subepidermal low-echogenic band, dependence of age and body site. Skin Res Tech 2004;10:57–63.
  7. Waller JM, Maibach HI. Age and skin structure and function, a quantitative approach (I): Blood flow, thickness, and ultrasound Skin Res Tech 2005;11:221–35.
  8. Andre Hyaluronic acid and its use as a ‘rejuvenation’ agent in cosmetic dermatology. Semin Cutan Med Surg 2004;23:218–22.
  9. Verpaele A, Strand A. Restylane SubQ, a non-animal stabilized hyaluronic acid gel for soft tissue augmentation of the mid- and lower Aesthet Surg J 2006;26:S10–S17.

Tham khảo thêm một số bài viết cùng chủ đề

Ngày viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *