Hõm thái dương (FILLER TEMPORAL HOLLOW) – Kim Hee Jin

Tác giả: Kim Hee Jin

Biên dịch: Dr. Như Hương

Để tải file PDF của bài viết Hõm thái dương (FILLER TEMPORAL HOLLOW) – Kim Hee Jin, xin vui lòng click vào link ở đây.

Giải phẫu

Fig 3.23 Temple depression
Fig 3.23 Temple depression

Cân thái dương (TPF), hoặc cân thái dương nông , là cân nằm sâu dưới da bao phủ thái dương và bao quanh bởi động mạch- tĩnh mạch thái dương nông., tiếp tục bên dưới là SMAS (Hình 3.24).

DƯỚI cân thái dương nông ,cân thái dương sâu hoặc cân cơ thái dương phủ lên cơ thái dương

Bó nông của cơ thái dương bám từ cân này. Cân thái dương sâu bám từ đường thái dương trên đi ngang dưới để phân ra thành hai lớp (lớp nông và lớp sâu của cân thái dương sâu) tới gắn vào cung gò má.

Giữa hai lớp của cân thái dương sâu có khoang chứa ít mỡ và tĩnh mạch thái dương giữa H3.25

Tĩnh mạch thái dương giữa chạy trên cung gò má 20mm bằng chiều dài ngón tay trỏ khi đặt từ cung gò má lên…RẤT QUAN TRỌNG khi tiêm.. Tĩnh mạch nối, ™ mi mắt dưới, ™ quanh ổ mắt dẫn lưu về ™ thái dương giữa, về ™ thái dương nông đổ về hệ thống tĩnh mạch vùng ngực. H3.25 và H3.26

Hình 3.25

Hình 3.25
Hình 3.25
Hình 3.26
Hình 3.26

Động mạch Thái dương sâu từ động mạch hàm trên phân nhánh cho cơ thái dương. ở cân thái dương sâu. Phân nhánh: Động mạch thái dương sâu trước và sau giữa xương thái dương và cơ thái dương.Nó đi lên phân nhánh ở cơ thái dương và cân. MẠCH nằm dưới bụng và gân của phần dưới của cơ thái dương…Tuy nhiên, khi mạch máu đi lên phần trên cơ thái dương xuyên qua cơ. H3.27

Hình 3.27
Hình 3.27

Nếu lõm khu trú nên dùng kim, lõm rộng nên dùng canula.Vùng thái dương nhiều mạch máu nên có 1 số ca báo cáo mù mắt do chạm mạch..Dù nguyên nhân chính xác không biết.. vì vậy nên tiêm tránh mạch máu.. Độ sâu là chạm xương, trong trường hợp này giữa hốthái dương và cơ thái dương. Vùng lõm quá rộng thì cần lượng filler lớn.(H. 3.28a , 3.29 , and 3.31 ).

Hình 3.28
Hình 3.28
Hình 3.29
Hình 3.29
Hình 3.30
Hình 3.30
Hình 3.31
Hình 3.31

Véo vùng thái dương làm cân thái dương đỉnh dính vào da và cân thái dương sâu dính khoang tạo từ cơ giữa 2 lớp cân.

Khu vực này có sự hiện diện của mạch máu thấp; canula an toàn đặc biệt gần khu vực gò má tránh đụng vào nhánh trán của động mạch thái dương nông.(Hình. 3.28b, 3.30 và 3.31)

Lưu ý:

Bắt mạch thái dương nông trước tiêm… Xác định vùng không tiêm: ™ thông nối, tĩnh mạch thái dương giữa.

Tiêm bằng kim dễ gây tổn thường mạch và có thể tới xương. Khối máu tụ là dấu hiệu chỉ điểm tổn thương mạch.

Tiêm quá nhiều filler gây chèn ép thần kinh gò má thái dương dù cảm giác rất mơ hồ.

Tiêm filler thái dương đôi lúc sẽ không khắc phục thẩm mỹ toàn bộ gương mặt của khách…

Nên đánh giá thêm nhiều vùng khác trước điều trị tránh khách than phiền nhất là khách nữ giới.

Tip: 4 lớp có thể tiêm filler thái dương

  • L1: giữa cân thái dương nông và cân thái dương sâu: CANULA: tránh tổn thường động mạch – tĩnh mạch thái dương nông và nhánh trán của thần kinh mặt.. Tiêm vào mạch nên TRÁNH vì đm thái dương nông cung cấp máu chính trán trên và trán bên.. Nên massage sau tiêm tránh lồi lõm vì da vùng thái dương mỏng. Giảm bầm và chạm mạch canula nên nằm ở trên cân thái dương sâu..
  • L2:2 lớp nông sâu của cân thái dương sâu: có mặt mỡ thái dương nông và ™ thái dương giữa. Nên tiêm trên cung gò má 2cm.
  • L3 : giữa cân thái dương sâu và cơ thái dương : vùng tiềm năng để tiêm kim hoặc canula… Vị trí tiêm sau khi Canula qua cân thái dương sâu. .Ít mạch máu. sau đánh dấu điểm vào với kim đên lớp cơ, Canula chèn vào giữa cân thái nông và sâu.Sau khi để đầu canula dưới cân thái dương sâu, canula nên trực tiếp song song với mặt phẳng cơ. Massage bề mặt.
  • L4: giữa cơ thái dương và xương thái dương : tương đối an toàn bởi vì động mạch thái dương sâu đến cung cấp chỉ cho cơ thái dương trong khi đó liên hệ với nhánh khác ít. Tiêm chạm xương với kỹ thuật bevel down : sau khi chạm xương, tiêm trên tiêm dưới chếch 1 góc 45 độ.

Mạch máu nằm trong lớp cơ không nằm trên màng xương nên với kỹ thuật tiêm xiên giảm nguy cơ chạm mạch. Cần lượng filler nhiều.

Vùng thái dương giới hạn

  • Đường thái dương trên
  • Cung gò má
  • Ngành trán của xương gò má
  • Đường chân tóc

Da vùng này gồm xương trán, xương bướm, xương đỉnh và xương thái dương. Khu vực chuyển tiếp quan trọng trán và mặt dưới

Da ở vùng thái dương mỏng hơn vùng trán, và nó có một lượng lớn.Mô liên kết dày đặc. Lớp mỡ sâu dày đặc và là sự kéo dài về thái dương của BFP( khối mỡ má ).

Vùng có tóc có mạch máu với da dày. Vách thái dương trên và dưới là ranh giới trên dưới mạng mỡ thái dương. Mạng mỡ này kéo dài trán đến vùng cổ . Nó hầu hết là các ngăn mỡ bên má và có một ranh giới vách ngăn nhận dạng được gọi là vách ngăn bên má.

Cân thái dương đỉnh (mạc thái dương nông) : mỏng, đàn hồi và mạch máu nằm ngay dưới lớp mỡ dưới da và được kết nối chặt chẽ với vùng dưới da .

Cân thái dương đỉnh hỗ trợ cho SMAS (SMAS nằm dưới hố thái dương). Tại đường thái dương trên, cân thái dương liên tục với cân trên sọ trán và da đầu.

Cân thái dương sâu(cân cơ thái dương) là lớp mô liên kết dày bao quanh cơ thái dương bên dưới. Cân này chia lớp nông( cân trung gian) và lớp sâu khoảng trên 2 -3 cm trên cung gò má, bọc mỡ thái dương sâu và tách ra một lần nữa để bao bọc cung gò má.

Cân thái dương đỉnh chứa nhánh THÁI DƯƠNG của dây thần kinh MẶT. Cân thái dương sâu chứa các mạch THÁI DƯƠNG GIỮA cùng với các mạch THÁI DƯƠNG SÂU cung cấp CƠ thái dương.

Động mạch thái dương giữa là một nhánh của động mạch THÁI DƯƠNG NÔNG, là một nhánh cuối của động mạch cảnh ngoài(Hình 2). Nó tưới máu thái dương, trán, đỉnh thông với nhánh tương tự.

Động mạch- tĩnh mạch thái dương nông nhìn thấy được ở khu vực này. Do những yếu tố này, cấu trúc mạch máu quan trọng khi tiêm chất làm đầy ở vùng thái dương.
Tĩnh mạch chính ở vùng thái dương là tĩnh mạch thái dương nông, dẫn lưu thái dương, trán, đỉnh.

Theo thời gian, hõm thái dương hình thành, gờ xương xuất hiện nổi bật hơn, chủ yếu là cung gò má và đường thái dương(Sykes 2009).

Các lớp vùng thái dương bị ảnh hưởng của lão hóa:

  • Teo lớp mỡ
  • Cơ thái dương giảm khối lượng và
  • Xương thái dương trở thành lõm nhiều hơn.
  • Lông mày mất sự hỗ trợ mô mềm bị lão hóa và hạ xuống

.Raspaldo đã tạo ra sự lão hóa theo thời gian bốn điểm thang đo để đánh giá khu vực này
(Hình 5) (Raspaldo 2012):

  • Độ 1: Bình thường, lồi hoặc hố thái dương thẳng
  • Độ 2: Dấu hiệu sớm của hõm nhẹ (hố).
  • Độ 3: Sự lõm hố thái dương, với một số mạch thái dương có thể nhìn thấy; lông mày
    đuôi cũng rủ xuống.
  • Độ 4: Lộ xương hố vùng thái dương, ; nhìn thấy rõ tĩnh mạch và động mạch; hõm nhiều ở hố thái dương.

Kỹ thuật tiêm

Thực hiện càng sâu càng tốt và nằm dưới vùng cân thái dương sâu và để tránh dây thần kinh mặt. Trong khu vực này, tiêm dưới da kém hiệu quả vì tiêm mô mềm dưới da được bám dính mạnh vào da nhiều mạch máu gây nguy hiểm. Ngoài ra, không nên tiêm vào khoảng trượt (khoang Merkel), bởi vì sản phẩm sẽ di chuyển và biến mất nhanh chóng(Raspaldo 2012).

Mặt phẳng tiềm năng là nông đến cân thái dương sâu (mặt phẳng dưới da trung gian ),
sâu đến cân thái dương đỉnh (giữa mạc thái dương nông sâu)) và(3) sâu đến cơ thái dương (Sykes 2009).

Raspaldo et al. phát triển một mô hình bốn phần vẽ lên bệnh nhân cải thiện sự an toàn của quy trình (Raspaldo2012), như sau (Hình 10):

  • Giới hạn ngang dưới : cung gò má
  • Giới hạn trước cong: phần bên của ổ mắt.
  • Giới hạn trên cong: đường thái dương, khu vực hợp nhất giữa xương trán, xương đỉnh và xương thái dương, nơi màng xương , cân thái dương sâu, và dây chằng giữ quanh ổ mắt dính vào.
  • Giới hạn sau: giới hạn sau nhìn thấy được của hố thái dương Đối với một bệnh nhân hói đầu,cột mốc phía sau là sự kết thúc của đường thái dương,là giao nhau thái dương đỉnh và xương chẩm. Nó đại khái sau đường cong của tai.

Với bốn phần được xác định, một chiều dọc tại điểm giữa của cung gò má và một đường ngang từ khóe mắt bên.được vẽ để tách khu vực thái dương thành bốn góc phần tư (Hình 10).

An toàn và hiệu quả nhất là góc phần tư phía trước dưới , vì vậy khu vực này nên được tiêm đầu tiên.Là vùng sâu nhất,bởi vì kim phải xuyên đến độ sâu 1-1,5 cm.

Nếu nó không hiệu quả, mũi tiêm thứ hai nên được thực hiện tại giao nhau của đường thái dương và viền ổ mắt trên. . Sau khi điều trị 2 vùng này, một mũi tiêm sau đó có thể tiêm vào góc phần tư phía sau dưới, nằm ở phần bên nhất của cung gò má . Và nếu hõm nặng, tiêm phần tư sau trên , có thể được thực hiện. (Raspaldo 2012).

Thang đo lão hóa theo thời gian được tạo ra bởi HervéRaspaldo vào năm 2012 có thể được sử dụng nhưmột hướng dẫn để tiêm chất làm đầy trong khu vực này, thể hiện trong.

Xem thêm:

Có nên loại bỏ các nốt ruồi ở tay chân da dầu – Patrick McMahon, MD

Mesotherapy: Vấn đề an toàn và xử trí biến chứng

 

Ngày viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *