Bài viết Giới thiệu về kỹ thuật phẫu thuật; các phương pháp hỗ trợ và sự phát triển được dịch bởi Bác sĩ Phạm Tăng Tùng và Bác sĩ Văn Thị Như Ý từ Sách “SẸO TRỨNG CÁ – PHÂN LOẠI VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ” của các tác giả Antonella Tosti, Maria Pia De Padova, Gabriella Fabbrocini, Kenneth R Beer.
Giới thiệu
Kinh nghiệm lâm sàng và những nghiên cứu y học đã cho thấy hầu hết các trường hợp sẹo trứng cá không thể được giải quyết bằng một phương pháp điều trị “tốt nhất” đơn lẻ. Sẹo trứng cá rất đa dạng về cấu trúc và độ sâu, và mỗi một phương pháp điều trị hiện tại chỉ phù hợp nhất với một trong các loại sẹo. Trong khi các thủ thuật tái tạo bề mặt tỏ ra rất hữu ích trong giải quyết những rối loạn trong cấu trúc và sắc tố gây ra bởi sẹo trứng cá từ nông-trung bình-sâu, thì filler lại là phương pháp hiệu quả trong làm đầy sẹo co giãn, lõm sâu. Những can thiệp phẫu thuật được mô tả trong chương này gồm cắt đáy sẹo (subcision), ghép da (dermal grafting), kĩ thuật cắt và sinh thiết sẹo (excision and punch techniques) là những lựa chọn tốt nhất giúp cải thiện các dạng sẹo bị xơ hóa nhất và sâu nhất bên cạnh các phương pháp chỉnh sửa sẹo nông bề mặt.
Cả hai phương pháp cắt đáy sẹo và ghép da đều nhằm đạt được sự làm đầy lâu dài đối với những sẹo lõm sâu nhưng không rõ bờ sẹo. Cắt đáy sẹo được ứng dụng để điều trị sẹo trứng cá dạng rolling gây ra bởi sự hình thành các sợi xơ neo từ bề mặt sẹo với các cấu trúc sâu hơn phía dưới của da. Do sự tồn tại của các sợi xơ này, loại sẹo này không thể được chỉnh sửa hiệu quả bởi thủ thuật filler da đơn thuần nhưng lại có thể cải thiện khi áp dụng phương pháp cắt đáy sẹo để làm đứt những sợi xơ bên dưới bề mặt những sẹo rolling. Ghép da là thủ thuật cấy ghép một dải hoặc một mảnh da tự thân vào vùng sẹo đã đã được cắt bỏ và có thể đạt được hiệu quả làm đầy lâu dài đối với những sẹo lõm sâu gây ra bởi tổn thương mất da.
Cắt và sinh thiết sẹo là kĩ thuật được sử dụng để thay thế các loại sẹo sâu, bờ sắc như sẹo ice pick và sẹo boxcar sâu bằng một sẹo thứ phát ít xấu hơn. Trong thủ thuật cắt hình elip và cắt bằng dụng cụ bấm, sẹo được phẫu thuật loại bỏ và được đóng lại một cách cẩn thận để có thể tạo ra một đường sẹo phẳng nằm trùng với các nếp da tự nhiên. Ghép da sau khi cắt sẹo bằng dụng cụ bấm là phương pháp thay thế sẹo đã bị bấm cắt bằng một mảnh da lành tự thân với đầy đủ độ dày và sự phát triển của mảnh da mới là nhờ vào sự bào tồn của lớp đáy sẹo khi cắt cho phép mảnh da mới có thể phát triển bằng với mô da xung quanh.
Đối với tất cả những thủ thuật phẫu thuật được mô tả trong chương này, cần thiết phải lựa chọn bệnh nhân một cách cẩn thận và giao tiếp liên tục với bệnh nhân. Mặc dù những thủ thuật này có tiềm năng giúp cải thiện thậm chí đối với dạng nặng nhất của sẹo trứng cá, bệnh nhân phải có kỳ vọng đúng thực tế và nên tư vẫn kĩ cho bệnh nhân về mức độ cải thiện có thể đạt được khi điều trị. Mặt dù có thể cải thiện được sự không đều về bề mặt, cấu trúc và sắc tố nhưng việc loại bỏ hoàn toàn sẹo gần như là không thể. Vì nhiều bệnh nhân có đồng thời nhiều loại sẹo trứng cá khác nhau và do một vài trong các phương pháp điều trị này có thể tạo ra những sẹo thứ phát nên việc phối hợp nhiều thủ thuật khác nhau trong một liều trình kéo dài nhiều tháng là cần thiết để đạt được kết quả khả quan nhất. Ngoài ra, khi lên kế hoạch điều trị, bác sĩ lâm sàng nên lưu ý cẩn thận xem bệnh nhân có sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian hồi phục sau điều trị hay không. Trước khi đề xuất bất kì một thủ thuật chỉnh sửa sẹo nào thì cần thiết phải hỏi sơ qua về tiền sử phẫu thuật và bệnh lý của bệnh nhân. Bệnh nhân nếu có nguy cơ cao bị sẹo lồi và sẹo phì đại hay những người có mụn trứng cá đang hoạt động hoặc hoạt động gần đây không phải là ứng cử viên tốt cho các thủ thuật phẫu thuật chỉnh sữa sẹo [1] (bảng 12.1).
BẢNG 12.1: Đặc điểm khiến bệnh nhân có thể bị chống chỉ định với các phẫu thật điều trị sẹo
Đặc điểm | Lý do chống chỉ định |
Tiền sử chậm lành vết thương hoặc có xu hướng hình thành sẹo lồi/sẹo phì đại | Nguy cơ hình thành sẹo xấu không mong muốn |
Mong muốn không thực tế | Việc loại bỏ hoàn toàn sẹo gần như là không thể. Kết quả tốt nhất có thể đạt được cần phải có sự phối hợp của nhiều phương pháp điều trị khác nhau trong một liệu trình kéo dài nhiều tháng. |
Đang hoặc gần đây có tổn thương mụn trứng cá hoạt động | Sự phá vỡ các đơn vị nang lông- tuyến bã trong quá trình làm các thủ thuật phẫu thật có thể dẫn đến hình thành các nang dạng trứng cá. |
Các phương pháp hỗ trợ và sự phát triển trong tương lai
Mặc dù có nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị sẹo trứng cá đã được sử dụng trong nhiều thập kỉ, tuy nhiên vẫn có sự hạn chế số lượng các nghiên cứu về đánh giá đáp ứng lâu dài của những phương pháp điều trị này và sự so sánh hiệu quả điều trị với các phương pháp khác. Trong khi một vài phương pháp điều trị như dermabrasion dần dần không được ưa chuộng, thì những phương pháp điều trị mới, phác đồ điều trị mới và những nghiên cứu so sánh vẫn đang liên tục được báo cáo. Việc đẩy mạnh nghiên cứu những phương pháp điều trị được dự báo trong chương này cùng với sự phát hiện của những phương pháp điều trị mới có thể sẽ giúp cải tiến và/hoặc nâng cao hiệu quả điều trị trong tương lai.
Dermabrasion là phương pháp sử dụng một thiết bị motor gắn với dụng cụ mài như bàn chải tốc độ cao, đầu mài kim cương, hoặc giấy nhám phủ silicon than hóa để loại bỏ lớp thượng bì và/hoặc một phần lớp bì để kích thích tái tạo collagen [52-54]. Mục đích của phương pháp này là cho phép bác sĩ làm mòn rìa sẹo với độ chính xác cao hơn mà không gây tổn thương nhiệt [54]. Dermabrasion là phương pháp phù hợp nhất để điều trị sẹo rolling, và sẹo boxcar nông, nhưng ít có tác dụng đối với sẹo trứng cá sâu như sẹo ice pick, hoặc sẹo boxcar sâu [54-56]. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh hiệu quả điều trị tương tự của dermabrasion với laser vi điểm [57]. Tuy nhiên, nhược điểm của thủ thuật này đặc biệt đau, đỏ da, phù, thời gian phục hồi lâu, nguy cơ để lại sẹo, rối loạn sắc tố và hình thành mụn thịt (milia) [55,57].
Những nghiên cứu gần đây về sinh học tế bào gốc và y học tái tạo (regenerative medicine) cho rằng những cách tiếp cận mới trong chỉnh sửa sẹo có thể sẽ xuất hiện trong tương lai. Những tiến bộ lớn đã đạt được trong việc làm sáng tỏ sự khác biệt giữa quá trình xơ hóa khi lành vết thương dẫn đến sẹo và những con đường giúp tái tạo hoàn hảo mô tổn thương, một hiện tượng có thể quan sát thấy ở bào thai người và những sinh vật khác [58]. Các tế bào gốc da đã được xác định ở động vật có vú, và chúng ta hy vọng rằng bằng cách cấy ghép những tế bào này vào da tổn thương và cung cấp đúng điều kiện vi môi trường thì quá trình lành nhờ tái tạo có thể dược tạo ra [58].
Do đó, sau cùng chúng ta có thể cắt xơ sẹo và kiểm soát vết thương theo cách mà nó có thể được thay thế bởi mô da mới bình thường và khỏe mạnh. Những nghiên cứu can thiệp được mô tả gần đây có liên quan đến việc sử dụng tế bào gốc để trẻ hóa và cải thiện sẹo da. Tế bào gốc được tìm thấy trong tủy xương, mô mỡ và máu nơi mà các tế bào gốc thực hiện chức năng như là các tế bào chưa biệt hóa và có thể biệt hóa thành một loại tế bào cụ thể [59]. Ibrahim và các cộng sự của mình đã tìm thấy sự cải thiện lớn về số lượng và chất lượng ở 14 bệnh nhân được điều trị sẹo trứng cá bằng cách tiêm trực tiếp tế bào gốc tủy xương tự thân vào sẹo [60]. Tương tự, Zhou và các đồng nghiệp của ông đã đánh giá việc bôi tế bào gốc có nguồn gốc từ mô mỡ 1 tuần sau lần điều trị đầu tiên và 1 tháng sau mỗi lần điều trị với laser CO2 vi điểm trong điều trị sẹo lõm ở mặt và trẻ hóa da [61].
Cả hai nhóm bệnh nhân đều có sự gia tăng về mức độ hài lòng, độ đàn hồi và cấp nước cho da, và có sự giảm mức độ mất nước qua da, giảm thô ráp và giảm chỉ số sắc tố. Phân tích mô học từ một bệnh nhân cho thấy có sự tăng mật độ collagen và elastin lớp bì [61]. Do đó, sử dụng tế bào gốc có thể cân nhắc như là một phương pháp điều trị đơn độc hoặc sử dụng phối hợp với các phương pháp phẫu thuật để cải thiện hiệu quả điều trị. Gần đây, các lần điều trị tế bào gốc trên các bệnh nhân ở phòng khám với nhiều chỉ định lâm sàng khác nhau đã được FDA (Cục quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) khảo sát kĩ lưỡng và các phòng khám này đã được phê chuẩn là không an toàn và có nhiều tuyên bố không được kiểm nghiệm.
Ghép mỡ tự thân (fat grafting) là một sự lựa chọn ngày càng phổ biến trong điều trị sẹo trứng cá. Mặc dù phương pháp này ban đầu được mô tả bởi Neuber vào năm 1893, Coleman vào năm 2006 đã chứng minh sự cải thiện của sẹo trứng cá ở những bệnh nhân được ghép mỡ [62,63]. Hiệu quả của phương pháp cấy mỡ được cho là có liên quan với các tế bào gốc mỡ có tiềm năng biệt hóa, tổng hợp collagen và kích thích tăng sinh mạch máu [64]. Mô mỡ được thu hoạch và các phần mô nhỏ được tiêm vào trong nhiều đường hầm để tăng tiếp cận tối đa với nguồn cung máu [59]. Hiệu quả điều trị được thấy rõ khoảng 3 tháng sau điều trị [59].
Seidel và Moy đã đánh giá việc sử dụng các serum yếu tố tăng trưởng thượng bì tổng hợp 2 lần mỗi ngày trong điều trị sẹo trứng cá. Sau 12 tuần điều trị, trong 8 bệnh nhân có 25% có hiệu quả rất tốt và 37% có hiệu quả tốt [65]. Có rất nhiều các sản phẩm serum được thêm vào các chất có nguồn gốc từ tế bào gốc được lưu thông trên thị trường có thể dùng để làm tăng hiệu quả điều trị khi phối hợp với các phương pháp điều trị phẫu thuật [59].
Một phương pháp điều trị bổ trợ tiềm năng khác đã được nghiên cứu đó là sử dụng liệu pháp ánh sáng cường độ thấp (low-level light thera- py-LLLT). Barolet và Bouche đã báo cáo về 3 bệnh nhân bị sẹo phì đại hoặc sẹo lồi do mụn trứng cá hoặc do phẫu thuật, 3 bệnh nhân này được điều trị bằng laser CO2 xâm lấn và có một một trong 2 vết sẹo được điều trị với ánh sáng đèn LED (light-emitting diode- diode phát quang) có bước sóng 805 nm trong vùng hồng ngoại gần ở mức năng lượng 30 mW/cm2 trong 30 ngày [66]. Sau điều trị, kết quả ở 3 bệnh nhân (trong đó có 1 bệnh nhân có sẹo lồi trứng cá trên ngực) đều cho thấy có sự cải về diện mạo khi nhìn, độ nặng sẹo và địa hình bề mặt da so với vùng không điều trị. Mặc dù cần có thêm nhiều nghiên cứu, LLLT được cho là có khả năng làm giảm inter- leukin-6 và điều hòa yếu tố tăng trưởng TGF-β là những chất có liên quan đến quá trình lành bình thường của vết thương [67].
Một lựa chọn khác đó là sử dụng phương pháp cấy lông để ngụy trang sẹo trứng cá dạng boxcar và rolling ở vùng có râu của bệnh nhân có phân loại da type V theo Fitzpatrick [68]. Các tác giả này đã mô tả việc sử dụng dụng cụ bấm nang lông để lấy các đơn vị nang lông từ các vùng hiến ở dưới hàm và dưới càm để cấy xung quanh mỗi sẹo [68]. Kết quả là sẹo trứng cá ít bị để ý hơn và làm tăng tính thẩm mỹ [68].
Tóm tắt
Chỉnh sửa sẹo trứng cá là một quá trình phức tạp, trong đó hướng dẫn điều trị được thiết kế cá nhân hóa tùy thuộc vào đánh giá mức độ nặng của sẹo, các đặc điểm chung của bệnh nhân cũng như cân nhắc đến mong muốn, mục tiêu và khả năng tài chính của bệnh nhân [59]. Mỗi kĩ thuật chỉnh sửa sẹo chỉ phù hợp nhất đối với một loại sẹo và để có thể điều trị tất cả các loại sẹo đòi hỏi mỗi một bác sĩ phải thuần thục rất nhiều thủ thuật phẫu thuật, không phẫu thuật và tái tạo bề mặt. Những kĩ thuật phẫu thuật được mô tả trong trong chương này là những kĩ thuật mà mỗi bác sĩ phải nắm được và là một trong số ít những thủ thuật có khả năng cải thiện các loại sẹo trứng cá sâu và xơ hóa (Hình 12.6). Bác sĩ da liễu thẩm mỹ nên cân nhắc phối hợp những phương pháp phẫu thuật này với các thủ thuật tái tạo bề mặt và các thủ thuật không phẫu thuật khác, vì những phương pháp này khi phối hợp có thể cộng gộp tác dụng để đạt hiệu quả điều trị cao hơn [59]. Vì sẹo trứng cá nặng thường gây stress (cảm xúc và xã hội) đối với bệnh nhân, do đó học cách thực hiện các thủ thuật này là rất cần thiết đối với các bác sĩ da liễu thẩm mỹ.
Tham khảo thêm một số bài viết cùng chủ đề:
- Lăn kim điều trị sẹo trứng cá: Cách thực hiện, lưu ý thận trọng
- Mụn viêm: Nguyên nhân, Triệu chứng, Cách điều trị hiệu quả