Bài viết Cắt khâu sẹo, bấm nâng sẹo và ghép da bằng dụng cụ bấm được dịch bởi Bác sĩ Phạm Tăng Tùng và Bác sĩ Văn Thị Như Ý từ Sách “SẸO TRỨNG CÁ – PHÂN LOẠI VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ” của các tác giả Antonella Tosti, Maria Pia De Padova, Gabriella Fabbrocini, Kenneth R Beer.
Lịch sử
Kỹ thuật cắt và bấm mảnh ghép đã được sử dụng trong vài thập kỉ để điều trị sẹo trứng cá lõm sâu [8,36-41]. Những kĩ thuật này vẫn không thể thiếu trong điều trị sẹo trứng cá ở những người không thể chỉnh sửa được bằng các phương pháp tái tạo bề mặt và những người có đáy sẹo không đồng đều và bờ sắc rõ khiến họ trở nên không phù hợp để làm filler chỉnh sửa.
Kỹ thuật
Cắt khâu sẹo hình elip hoặc cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm (punch excision) nên được sử dụng khi mục đích thẩm mỹ là thay thế sẹo xấu bằng những đường sẹo nông ít xấu hơn. Cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm được chỉ định để điều trị sẹo ice pick và sẹo boxcar sâu có đường kính <3.5 mm [1]. Sẹo lớn hơn 3.5 mm nên được giải quyết bằng thủ thuật cắt khâu sẹo hình elip để vết thương được tạo ra có thể được chỉnh sửa một cách hiệu quả. Cắt khâu sẹo cũng thường là lựa chọn tối ứu để điều trị sẹo có các cầu dưới da hoặc các nang mạn tính hoặc các đường hầm ở bên dưới [42]. Phương pháp này cũng được lựa chon để điều trị một số sẹo trứng cá lồi hoặc phì đại [35] (bảng 12.2).
Đối với một số bệnh nhân bị sẹo ice pick và sẹo boxcar sâu, phương pháp ghép da bằng dụng cụ bấm (punch grafting) có thể cho kết quả có tính thẩm mỹ cao hơn so với phương pháp cắt khâu sẹo, đặc biệt là nếu sẹo nằm ở các vùng trên mặt nơi mà những vết sẹo do cắt mổ khó có thể được che đậy bới các nếp tự nhiên. Tuy nhiên, ghép da bằng dụng cụ bấm chỉ khả thi nếu bệnh nhân có vùng hiến da có màu sắc và cấu trúc da phù hợp với vùng sẹo. Punch grafting sẽ dễ thành công nhất ở vùng mặt ít di động nhất như vùng trán và vùng má trên [35] (bảng 12.2).
Bấm nâng sẹo có chỉ định rất hẹp đối với sẹo boxcar sâu với đáy có cấu trúc trơn nhẵn, màu sắc bình thường và không bị xơ hóa. Ngoài ra những sẹo này còn phải có thành sẹo dựng đứng vì nếu sẹo nhỏ dần theo độ sau thì đáy sẹo sẽ không đủ lớn để làm đầy bề mặt phía trên khi làm thủ thuật (bảng 12.2).
BẢNG 12.2: Chỉ định đối với các kĩ thuật cắt và bấm
Kĩ thuật | Các loại sẹo được chỉ định |
Cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm | Sẹo ice pick; sẹo boxcar sâu đường kính < 3.5 mm |
Cắt khâu sẹo hình elip | Sẹo ice pick; sẹo boxcar sâu đường kính < 3.5 mm; sẹo có cầu nối, nang hoặc đường hầm. |
Ghép da bằng dụng cụ bấm | Sẹo ice pick; sẹo boxcar sâu |
Bấm nâng sẹo | Sẹo boxcar sâu có thành sẹo dựng đứng, đáy có cấu trúc và màu sắc da phù hợp với vùng da xung quanh |
Ưu điểm và nhược điểm
Các kĩ thuât cắt và bấm có những ưu điểm khác biệt so với các kĩ thuật chỉnh sửa sẹo không phẫu thuật về khả năng cải thiện phần lớn tình trạng sẹo ice pick và sẹo boxcar sâu của nó. Mãi cho đến khi có sự xuất hiện của kĩ thuật tái cấu trúc sẹo bằng cách bôi trichloroacetic acid tại chỗ trong điều trị sẹo ice pick hẹp [43], thì kĩ thuật phẫu thuật là phương pháp điều trị hiệu quả duy nhất đối với các sẹo trứng cá lõm sâu hoặc sẹo có đáy lõm không đồng đều.
Nhược điểm chính của tất cả các kĩ thuật cắt và bấm là để lại sẹo thứ phát. Ý tưởng thay thế sẹo cũ bằng sẹo mới có thể không thuyết phục đối với một số bệnh nhân và bác sĩ. Ngoài ra, những thủ thuật này khó có thể đạt được kết quả tối ưu ở những bệnh nhân chậm lành vết thương. Cần phải lưu ý rằng một vài bệnh nhân có thể hình thành sẹo trứng cá nặng do có cơ địa lành vết thương bất thường, và do đó những bệnh nhân này khó có thể được chỉ định những thủ thuật can thiệp trên. Thậm chí khi thực hiện tốt việc lựa chọn bệnh nhân, các kĩ thuật cắt và bấm cũng có thể có nhiều nguy cơ để lại sẹo lồi hoặc sẹo lõm. Ghép da bằng dụng cụ bấm có thêm nhược điểm là đòi hỏi phải có vùng hiến da và nguy cơ lồi mảnh da ghép hoặc nhìn thấy được sự không vừa vặn giữa mô ghép và vùng da nhận.
Biến chứng
Sau thủ thuật cắt khâu sẹo hình elip, sẹo có thể lõm hơn và to hơn, đặc biệt là ở những vùng tuyến bã nhờn hoạt động mạnh [44,45]. Cách dự phòng biến chứng này là lựa chọn bệnh nhân cẩn thận và thực hiện kĩ thuật tỉ mỉ. Lưu ý khi cắt khâu sẹo phải bảo tồn tối đa mô dưới da để trở thành nền cố định cho quá trình lành vết thương [44]. Kĩ thuật khâu chính xác [46] và sử dụng chỉ Steri-Strips (3M Corp.,St. Paul, MN, USA) cho đến 10 ngày sau thủ thuật [47] có thể hạn chế sẹo lan rộng. Khi lên kế hoạch điều trị sẹo có diện tích lớn, nên tránh cắt rộng thay vào đó nên lựa chọn thực hiện vết cắt nhỏ trong nhiều lần, với khoảng cách giữa các lần từ 4-6 tuần [46].
Một vài biến chứng của thủ thuật ghép da bằng dụng cụ bấm gồm lấy mảnh ghép không tốt, lồi mảnh ghép, lõm các rãnh quanh bờ của miếng ghép, mảnh ghép lồi hoặc lõm, không trùng khớp về cấu trúc và màu sắc giữa mảnh ghép và vùng da xung quanh. Để hạn chế những biến chứng này, vùng da hiến mô nên được lựa chọn một cách cẩn thận trước khi tiến hành thủ thuật. Nguy cơ xuất hiện bờ lõm quanh mảnh ghép hoặc lồi hoặc lõm mảnh ghép có thể được làm giảm bằng cách lấy mảnh ghép có kích thước hơi lớn hơn so với vùng nhận và sử dụng chỉ Steri-Strips để giữ mảnh ghép đúng vị trí trong tối thiểu 5 ngày [48]. Ngoài ra, cần lưu ý là khả năng thành công của mảnh ghép ít hơn khi ghép ở vùng má dưới và vùng quanh miệng do vùng hàm và vùng miệng cử động nhiều. Nếu mảnh ghép được ghép ở những vùng này, cần chăm sóc cẩn thận hơn để đảm bảo mảnh ghép ở đúng vị trí và bệnh nhân phải hạn chế nói và ăn trong vài ngày sau phẫu thuật [48].
Đối với thủ thuật bấm nâng sẹo, biến chứng thường xảy ra nhất là mảnh da được bấm lồi cao hơn soi với vùng da xung quanh trong thời gian dài [48].
Phối hợp với các phương pháp khác
Các kĩ thuât cắt và bấm thường được phối hợp với các thủ thuật tái tạo bề mặt da nhàm cải thiện bề mặt của sẹo. Thông thường, có thể tiến hành mài da (dermabrasion) từ 4-8 tuần sau khi cắt khâu sẹo hoặc ghép da bằng dụng cụ bấm [38]; một lựa chọn khác mới hơn đó là tiến hành phối hợp đơn thuần giữa thủ thuật cắt khâu sẹo hoặc ghép da bằng dụng cụ bấm với laser tái tạo bề mặt [49,50]. Một nghiên cứu hai nữa mặt (split- face) ngẫu nhiên đã tiến hành so sánh liệu trình điều trị với kỹ thuật bấm nâng sẹo sau khi đã thực hiện 2 lần điều trị với laser CO2 vi điểm, khoảng cách điều trị là 1 tháng với liệu trình điều trị laser CO2 đơn lẻ trong điều trị sẹo lõm trứng cá; kết quả cho thấy liệu trình điều trị phối hợp tỏ ra có hiệu quả hơn [51].
Lời khuyên lâm sàng cho các bác sĩ
Do các thủ thuật cắt và bấm sẽ để lại sẹo thứ phát, nên đều quan trọng là bệnh nhân phải có kì vọng đúng thực tế trước khi tiến hành thủ thuật điều trị. Bệnh nhân nên được thông tin đầy đủ về kết quả có thể đạt được và họ cần phải sẵn sàng chấp nhận khả năng có thể cần phải thực hiện thêm thủ thuật sau đó như tái tạo bề mặt bằng laser để có thể đạt kết quả tốt nhất.
Với tất cả những kĩ thuật này có thể tiến hành điều trị nhiều vùng sẹo cùng một lúc. Nếu có 2 sẹo được cắt đồng thời, thì khoảng cách giữa chúng ít nhất là 4-5 mm để tránh căng quá mức trong giai đoạn lành vết thương [1]. Nếu ghép nhiều mảnh da được bấm với kích thước khác nhau trong cùng một lần làm thủ thuật thì nên xắp sếp các mảnh ghép và dán nhãn chúng trước khi bắt đầu.
Trong thủ thuật ghép da bằng dụng cụ bấm, lựa chọn cẩn thận vùng hiến da là hết sức quan trọng. Vùng sau tai là vùng thường được sử dụng làm vùng hiến da nhất, nhưng nếu vùng này không phù hợp với vùng nhận hoặc vùng này đang có tổn thương mụn hoạt động, thì có thể cân nhắc lấy ở những vùng như vùng trước tai, vùng trên xương ức, vùng sau cánh tay và vùng chân tóc [48].
Quy trình thực hiện kỹ thuật
Trước khi thực hiện các thủ thuật cắt và bấm da, cần phải khám và đánh dấu sẹo, vùng điều trị phải dược lau sạch và tiêm tê với lidocaine 1% có chứa epinephrine (1:100000). Đối với tất cả các kĩ thuật bấm da, hiện có sẵn rất nhiều dụng cụ bấm sinh thiết khác nhau với đường kính từ 1.5 đến 3.5 mm (tăng dần theo mức 0.25 mm) (Goodman GJ, không được công bố). Thành của mảnh da được bấm liên tục và thẳng.
Trong thủ thuật cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm, có thể chọn một dụng cụ bấm có kích thước đủ lớn để ôm trọn vùng sẹo và thành sẹo [1]. Dùng ngón trỏ và ngón cái giữ 2 bên của mảnh sẹo và tạo ra lực kéo ra ngoài vuông góc với các nếp da tĩnh [35]. Sau đó ta có được một vết thương dài và có thể được che dấu bởi các rãnh tự nhiên trên da mặt. Dụng cụ bấm được đặt vuông góc 900 được bấm vào da đến lớp mỡ dưới da; sau đó mảnh sẹo sẽ dễ dàng được nhấc ra trừ khi đáy sẹo bị xơ hóa quá nhiều. Có thể sử dụng forceps hoặc kéo iris để bóc tánh nhẹ nhàng mảnh sẹo khỏi các bó xơ sợi nếu cần thiết [1]. Nếu có kích thước nhỏ hơn 2 mm thì có thể để vết thương tự lành nhờ quá trình lành thứ phát [28] hoặc có thể đóng bằng một hoặc hai mối khâu riêng lẻ [1]. Nếu lớn hơn 2.5 mm thì vết thương sẽ lành tốt hơn nếu đóng bằng một mũi khâu sâu trong da duy nhất [1]. Bất kì mũi khâu thượng bì nào đều phải được cắt chỉ trong vòng 7 ngày để tránh hình thành dấu chỉ [1].
Cắt khâu sẹo hình elip được ưa chuộng hơn so với cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm khi điều trị sẹo lớn hơn 3.5 mm. Phương pháp này sử dụng dao phẫu thuật đểcắt hình elip dọc theo các nếp da tĩnh. Vùng sẹo sẽ nằm trọn bên trong vùng trung tâm của hình elip và 2 góc của hình elip phải nhỏ hơn 300 để đảm bảo tính thẩm mỹ khi đóng da [35]. Có thể cắt bên dưới bờ vết thương để làm nó di động hơn và vết thương sẽ không căng khi đóng [47]. Vết cắt nhỏ có thể được đóng bằng mũi chỉ trong da [46] trong khi vết thương lớn có thể được đóng bằng nhiều mũi khâu đơn, rời nhau hoặc bằng mũi khâu đệm dọc trong da [35].
Để thực hiện thủ thuật bấm nâng sẹo, dụng cụ bấm được chọn phải có đường kính bằng với kích thước của đáy sẹo (hình 12.4). Dụng cụ được bấm xuống lớp mỡ dưới da để có thể dễ dàng điều chỉnh mảnh sẹo [48]. Tiếp theo, sử dụng forceps để nâng nhẹ đáy sẹo cho đến khi thấy đáy sẹo hơi cao hơn so với bề mặt xung quanh và được giữ nguyên trong 1-2 phút cho đến khi đông máu xảy ra bên dưới sẹo [48] (hình 12.4). Mảnh sẹo sau đó dược cố định tại chỗ bằng chỉ Dermabond (2-octyl cyanoacrylate, Ethicon, Inc.,Somerville, NJ, USA) hoặc chỉ Steri-Strips [19]. Vùng này sau đó được bôi kháng sinh và đắp gạc, bệnh nhân phải được hướng dẫn rửa nhẹ nhàng vùng điều trị và bôi kháng sinh 2 lần mỗi ngày [1].
Trước khi tiến hành ghép da bằng dụng cụ bấm, cần lựa chọn và chuẩn bị vùng hiến da, vùng này được gây tê tương tự như gây tê vùng nhận. Đầu tiên, tiến hành bấm cắt toàn bộ sẹo bao gồm cả thành sẹo (hình 12.5). Nên để bấm vuông gócm900 so với bề mặt da theo chuyển động xoắn. Ngược với kĩ thuật cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm được mô tả trước đó, cần phải cẩn thận để không kéo căng vùng da hai bên từ đó có thể tạo ra một hố nhận tròn trịa [42]. Sẹo được cắt sẽ được lấy ra và bỏ đi. Mảnh da ghép sau đó được thu hoạch bằng dụng cụ bấm có đường kính lớn hơn hố nhận từ 0.25-0.5 mm bằng kĩ thuật tương tự để có thể tạo ra mảnh da ghép đủ độ dày và tròn trịa.
Khuyến cáo sử dụng mảnh da ghép hơi lớn hơn hố nhận vì mảnh da ghép thường có xu hướng co lại trong khi hố nhận có xu hướng rộng ra, và điều quan trọng là phải đảm bảo duy trì sự tiếp xúc giữa mảnh da ghép với bờ của hố nhận [38,42]. Mảnh da ghép được đưa vào nhẹ nhàng và sử dụng forceps để điều chỉnh mảnh ghép vào vùng nhận sao cho bề mặt mảnh da ghép hơi cao hơn so với mô da xung quanh (hình 12.5). Mảnh ghép sau đó có thể được khâu hoặc dán để giữ cố định bằng chỉ Steri-Strips, vùng hiến da cũng được khâu lại. Bệnh nhân nên hạn chế vận động cơ mặt và tránh đụng mảnh ghép trong vài ngày đầu sau thủ thuật.
Xử lí biến chứng
Như được mô tả ở trên, nguy cơ biến chứng của các thủ thuật cắt và bấm sẹo có thể được hạn chế tối thiểu nếu tiến hành thủ thuật một cách cẩn thận Khi cắt khâu sẹo hình elip hoặc cắt khâu sẹo bằng dụng cụ bấm với kích thước lớn, cần phải khâu vết thương tỉ mỉ để sẹo vết khâu ít bị chú ý nhất. Trong thủ thuật ghép da bằng dụng cụ bấm, cần lựa chọn vùng hiến da cẩn thận, kĩ thuật thu hoạch mảnh da ghép chính xác và ghép mảnh ghép kĩ lưỡng đóng vai trò quan trọng để đạt được hiệu quả điều trị.
Nếu sẹo thứ phát sau thủ thuật không đẹp có thể tiến hành loại bỏ tiếp vết sẹo đó bằng các thủ thuật khác. Khi mảnh ghép da hơi gồ lên có thể xử lí bằng laser tái tạo bề mặt bắt đầu khoảng 4-8 tuần sau khi thực hiện thủ thuật ban đầu [40]. Trong trường hợp lồi mảnh da ghép hoặc hình thành sẹo lõm thì nên lặp lại thủ thuật ban đầu [38,42].
Trong thủ thuật bấm nâng sẹo, nút sẹo ban đầu hơi cao hơn so với bề mặt da xung quanh có thể phẳng dần mà không cần phải can thiệp, nhưng nếu tình trạng này kéo dài thì có thể làm phẳng bề mặt bằng các thủ thuật tái tạo bề mặt thực hiện từ 4-8 tuần sau thủ thuật ban đầu (Good- man GJ, không được công bố).
Các phương pháp hỗ trợ và sự phát triển trong tương lai
Mặc dù có nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị sẹo trứng cá đã được sử dụng trong nhiều thập kỉ, tuy nhiên vẫn có sự hạn chế số lượng các nghiên cứu về đánh giá đáp ứng lâu dài của những phương pháp điều trị này và sự so sánh hiệu quả điều trị với các phương pháp khác. Trong khi một vài phương pháp điều trị như dermabrasion dần dần không được ưa chuộng, thì những phương pháp điều trị mới, phác đồ điều trị mới và những nghiên cứu so sánh vẫn đang liên tục được báo cáo. Việc đẩy mạnh nghiên cứu những phương pháp điều trị được dự báo trong chương này cùng với sự phát hiện của những phương pháp điều trị mới có thể sẽ giúp cải tiến và/hoặc nâng cao hiệu quả điều trị trong tương lai.
Dermabrasion là phương pháp sử dụng một thiết bị motor gắn với dụng cụ mài như bàn chải tốc độ cao, đầu mài kim cương, hoặc giấy nhám phủ silicon than hóa để loại bỏ lớp thượng bì và/hoặc một phần lớp bì để kích thích tái tạo collagen [52-54]. Mục đích của phương pháp này là cho phép bác sĩ làm mòn rìa sẹo với độ chính xác cao hơn mà không gây tổn thương nhiệt [54]. Dermabrasion là phương pháp phù hợp nhất để điều trị sẹo rolling, và sẹo boxcar nông, nhưng ít có tác dụng đối với sẹo trứng cá sâu như sẹo ice pick, hoặc sẹo boxcar sâu [54-56]. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh hiệu quả điều trị tương tự của dermabrasion với laser vi điểm [57]. Tuy nhiên, nhược điểm của thủ thuật này đặc biệt đau, đỏ da, phù, thời gian phục hồi lâu, nguy cơ để lại sẹo, rối loạn sắc tố và hình thành mụn thịt (milia) [55,57].
Những nghiên cứu gần đây về sinh học tế bào gốc và y học tái tạo (regenerative medicine) cho rằng những cách tiếp cận mới trong chỉnh sửa sẹo có thể sẽ xuất hiện trong tương lai. Những tiến bộ lớn đã đạt được trong việc làm sáng tỏ sự khác biệt giữa quá trình xơ hóa khi lành vết thương dẫn đến sẹo và những con đường giúp tái tạo hoàn hảo mô tổn thương, một hiện tượng có thể quan sát thấy ở bào thai người và những sinh vật khác [58]. Các tế bào gốc da đã được xác định ở động vật có vú, và chúng ta hy vọng rằng bằng cách cấy ghép những tế bào này vào da tổn thương và cung cấp đúng điều kiện vi môi trường thì quá trình lành nhờ tái tạo có thể dược tạo ra [58]. Do đó, sau cùng chúng ta có thể cắt xơ sẹo và kiểm soát vết thương theo cách mà nó có thể được thay thế bởi mô da mới bình thường và khỏe mạnh. Những nghiên cứu can thiệp được mô tả gần đây có liên quan đến việc sử dụng tế bào gốc để trẻ hóa và cải thiện sẹo da. Tế bào gốc được tìm thấy trong tủy xương, mô mỡ và máu nơi mà các tế bào gốc thực hiện chức năng như là các tế bào chưa biệt hóa và có thể biệt hóa thành một loại tế bào cụ thể [59]. Ibrahim và các cộng sự của mình đã tìm thấy sự cải thiện lớn về số lượng và chất lượng ở 14 bệnh nhân được điều trị sẹo trứng cá bằng cách tiêm trực tiếp tế bào gốc tủy xương tự thân vào sẹo [60]. Tương tự, Zhou và các đồng nghiệp của ông đã đánh giá việc bôi tế bào gốc có nguồn gốc từ mô mỡ 1 tuần sau lần điều trị đầu tiên và 1 tháng sau mỗi lần điều trị với laser CO2 vi điểm trong điều trị sẹo lõm ở mặt và trẻ hóa da [61]. Cả hai nhóm bệnh nhân đều có sự gia tăng về mức độ hài lòng, độ đàn hồi và cấp nước cho da, và có sự giảm mức độ mất nước qua da, giảm thô ráp và giảm chỉ số sắc tố. Phân tích mô học từ một bệnh nhân cho thấy có sự tăng mật độ collagen và elastin lớp bì [61]. Do đó, sử dụng tế bào gốc có thể cân nhắc như là một phương pháp điều trị đơn độc hoặc sử dụng phối hợp với các phương pháp phẫu thuật để cải thiện hiệu quả điều trị. Gần đây, các lần điều trị tế bào gốc trên các bệnh nhân ở phòng khám với nhiều chỉ định lâm sàng khác nhau đã được FDA (Cục quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) khảo sát kĩ lưỡng và các phòng khám này đã được phê chuẩn là không an toàn và có nhiều tuyên bố không được kiểm nghiệm.
Ghép mỡ tự thân (fat grafting) là một sự lựa chọn ngày càng phổ biến trong điều trị sẹo trứng cá. Mặc dù phương pháp này ban đầu được mô tả bởi Neuber vào năm 1893, Coleman vào năm 2006 đã chứng minh sự cải thiện của sẹo trứng cá ở những bệnh nhân được ghép mỡ [62,63]. Hiệu quả của phương pháp cấy mỡ được cho là có liên quan với các tế bào gốc mỡ có tiềm năng biệt hóa, tổng hợp collagen và kích thích tăng sinh mạch máu [64]. Mô mỡ được thu hoạch và các phần mô nhỏ được tiêm vào trong nhiều đường hầm để tăng tiếp cận tối đa với nguồn cung máu [59]. Hiệu quả điều trị được thấy rõ khoảng 3 tháng sau điều trị [59].
Seidel và Moy đã đánh giá việc sử dụng các serum yếu tố tăng trưởng thượng bì tổng hợp 2 lần mỗi ngày trong điều trị sẹo trứng cá. Sau 12 tuần điều trị, trong 8 bệnh nhân có 25% có hiệu quả rất tốt và 37% có hiệu quả tốt [65]. Có rất nhiều các sản phẩm serum được thêm vào các chất có nguồn gốc từ tế bào gốc được lưu thông trên thị trường có thể dùng để làm tăng hiệu quả điều trị khi phối hợp với các phương pháp điều trị phẫu thuật [59].
Một phương pháp điều trị bổ trợ tiềm năng khác đã được nghiên cứu đó là sử dụng liệu pháp ánh sáng cường độ thấp (low-level light thera- py-LLLT). Barolet và Bouche đã báo cáo về 3 bệnh nhân bị sẹo phì đại hoặc sẹo lồi do mụn trứng cá hoặc do phẫu thuật, 3 bệnh nhân này được điều trị bằng laser CO2 xâm lấn và có một một trong 2 vết sẹo được điều trị với ánh sáng đèn LED (light-emitting diode- diode phát quang) có bước sóng 805 nm trong vùng hồng ngoại gần ở mức năng lượng 30 mW/cm2 trong 30 ngày [66]. Sau điều trị, kết quả ở 3 bệnh nhân (trong đó có 1 bệnh nhân có sẹo lồi trứng cá trên ngực) đều cho thấy có sự cải về diện mạo khi nhìn, độ nặng sẹo và địa hình bề mặt da so với vùng không điều trị. Mặc dù cần có thêm nhiều nghiên cứu, LLLT được cho là có khả năng làm giảm inter- leukin-6 và điều hòa yếu tố tăng trưởng TGF-β là những chất có liên quan đến quá trình lành bình thường của vết thương [67].
Một lựa chọn khác đó là sử dụng phương pháp cấy lông để ngụy trang sẹo trứng cá dạng boxcar và rolling ở vùng có râu của bệnh nhân có phân loại da type V theo Fitzpatrick [68]. Các tác giả này đã mô tả việc sử dụng dụng cụ bấm nang lông để lấy các đơn vị nang lông từ các vùng hiến ở dưới hàm và dưới càm để cấy xung quanh mỗi sẹo [68]. Kết quả là sẹo trứng cá ít bị để ý hơn và làm tăng tính thẩm mỹ [68].
Tóm tắt
Chỉnh sửa sẹo trứng cá là một quá trình phức tạp, trong đó hướng dẫn điều trị được thiết kế cá nhân hóa tùy thuộc vào đánh giá mức độ nặng của sẹo, các đặc điểm chung của bệnh nhân cũng như cân nhắc đến mong muốn, mục tiêu và khả năng tài chính của bệnh nhân [59]. Mỗi kĩ thuật chỉnh sửa sẹo chỉ phù hợp nhất đối với một loại sẹo và để có thể điều trị tất cả các loại sẹo đòi hỏi mỗi một bác sĩ phải thuần thục rất nhiều thủ thuật phẫu thuật, không phẫu thuật và tái tạo bề mặt. Những kĩ thuật phẫu thuật được mô tả trong trong chương này là những kĩ thuật mà mỗi bác sĩ phải nắm được và là một trong số ít những thủ thuật có khả năng cải thiện các loại sẹo trứng cá sâu và xơ hóa (Hình 12.6). Bác sĩ da liễu thẩm mỹ nên cân nhắc phối hợp những phương pháp phẫu thuật này với các thủ thuật tái tạo bề mặt và các thủ thuật không phẫu thuật khác, vì những phương pháp này khi phối hợp có thể cộng gộp tác dụng để đạt hiệu quả điều trị cao hơn [59]. Vì sẹo trứng cá nặng thường gây stress (cảm xúc và xã hội) đối với bệnh nhân, do đó học cách thực hiện các thủ thuật này là rất cần thiết đối với các bác sĩ da liễu thẩm mỹ.
Tham khảo thêm một số bài viết cùng chủ đề:
- Giới thiệu về ghép da: kỹ thuật, quy trình và xử lí biến chứng
- Điều trị sẹo trứng cá bằng chỉ tiêu và các loại chỉ