Thành phần của chất chống lão hóa và công dụng của từng thành phần

Thực phẩm phổ biến giúp thúc đẩy sức khỏe cho làn da là chất chống oxy hóa. Bao gồm các lợi ích như bảo vệ da khỏi tác hại của quá trình oxy hóa và tia UVR, chịu trách nhiệm đẩy nhanh quá trình lão hóa vả tổn thương DNA. Các suy nghĩ hiện nay về sức khỏe của làn da thúc đẩy việc áp dụng nhiều loại chất chống oxy hóa thong qua nhiều cơ chế hoạt động khác nhau.

Các tác nhân gây căng thẳng môi trường bao gồm UVR, chất ô nhiễm môi trường, khói thuốc lá và các chất oxy hóa hóa học và các yếu tố gây căng thẳng bên trong như lả các phản ứng trao đổi chất thông thường, tạo ra ROS phá hủy. việc bổ sung các chất chống oxy hóa hoạt tính nhằm mục đích bổ sung nguồn chất chống oxy hóa nội sinh, làm giảm chất trung gian chống viêm và ngăn ngừa các phản ứng dây chuyền oxy hóa và sự phá hủy DNA.

Một số tổn thương ADN có thể được ngăn chặn bằng các chất chống oxy hóa vì những chất này giữ hoạt động của ROS một cách hiệu quả, chống lại chuỗi phản ứng oxi hóa có thể dẫn đến sự nhầm lẫn và thay đổi trình tự sắp xếp DNA được xem như là đột biến, sự hấp thụ trực tiếp UVR gây ra liên kết chéo DNA không bị ngăn chặn bởi các chất oxy hóa do các gốc tự do không tham gia vào quá trình này. Những phản ứng này cực kỳ nguy hiểm gây ra đột biến liên quan đến ung thư, bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảy và tế bào đáy. Để giảm bớt nguy cơ của đột biến DNA nguy hiểm này, bệnh nhân có thể tận dụng các loại bảo hộ như kem chống nắng, quần áo bảo hộ,và các loại kính che mặt.

Quá trình phục hồi DNA đòi hỏi nhiều giai đoạn bao gồm cả enzyme sửa chữa cụ thể để thay thế các vị trí bị hư hỏng, liên kết chéo. Sự phá hủy các sợi DNA cuối cùng có thể dẫn tới 1] gen di truyền mới;2)giải phóng các tín hiệu căng thẳng, bao gồm yếu tố hoại tử khối u alpha và interleukin; và điều chỉnh lại MMP-1 trong nguyên bào nuôi sẽ dẫn đến sự suy thoái collagen. Thong qua nhiều cơ chế, việc tiếp xúc mãn tính với UVR và các chất độc sẽ dẫn đến hiện tượng hư hại về mặt vật lý siêu nghiêm trọng như da không đều màu, giả nua. Chất chống oxy hóa có thể hỗ trợ tích cực cho sức khỏe làn da mang lại một làn da sáng hơn, khỏe hơn và đều màu hơn.

Những yêu cầu về bảo vệ UVR được đáp ứng đầy đủ bằng cách sử dụng kết hợp các cơ chế hoạt động, bao gồm cả sự hấp thụ hoặc phản xạ với các tấm chắn vật lý và các chất chống oxy hóa như vitamin c, vitamin E, beta-carotene và selen để loại bỏ ROS( Box 13.1).
Sự phát triển của thực vật với nhiều cơ chế giúp bảo vệ khỏi sự hư tổn khi tiếp xúc với tia UV. Các loại thực vật phổ biến sử dụng trong việc điều trị da chứa hàng trăm thành phần hóa học khác nhau, nhiều loại có đặc tính chống oxy hóa. Các thành phần chính từ thực vật này là polyphenols và carotenoids đều mang đặc tính chống oxy hóa khi được bổ sung qua đường uống, polyphenols cung cấp cho cây trồng sự bảo vệ sắc tố và chống oxy hóa. Carotenoids có cấu trúc tương tự bao gồm vitamin A bảo vệ cây trồng khỏi tia UV và ROS. Có hơn 600 loại carotenoid đã được xác định, chỉ có 10% trong số này hoạt động như là tiền chất vitamin A, hay thường được biết với cái tên hoạt tính tiền sinh tố A. các carotenoid thông thường được sử dụng như là astaxanthin,lutein, lycopene và zeaxanthin. Các polyphenol phổ biến là các loại axit ellagic từ lựu, curcumin từ nghệ, hay epigallocatechin gallate( EGCG) từ trà xanh, genistein trong đậu nành và silymarin từ cúc vạn thọ.

Box 13.1:Kém chống nắng cùng với các chất chống oxy hóa
Box 13.1:Kém chống nắng cùng với các chất chống oxy hóa

1.Curcumin

Curcumin là thành phần có màu vàng cam được tìm thấy ở gốc của nghệ. Nó được xem như chất chống oxy hóa polyphenol và được sử dụng như một loại gia vị, màu thực phẩm và chất bảo quản ngăn ngừa sự đổi màu do quá trình oxy hóa. Cấu trúc tương tự như resveratrol, curcumin có hoạt tính chống viêm ngăn cản sự phân hủy của ceramides, đa số lipid trong màng tế bào hỗ trợ làm hàng rào bảo vệ da.

2. Ellafic Acid

Ellagic acid được tìm thấy ở nhiều loại rau củ, trái cây, nhưng hàm lượng cao nhất lại ở trong lựu và hạt cà phê. Tuy nhiên, thật không may những chất chống oxy hóa nảy được cơ thể hấp thụ kém, chuyên hóa nhanh và dễ dàng bị đào thải khỏi cơ thể. Các chất này sẽ làm sáng da bằng cách ức chế hoạt động của tyrosinase, chống viêm và bảo vệ khỏi sự suy thoái collagen do tia UVR gây ra bằng cách ngăn chặn hoạt động của các tác nhân gây lão hóa.

3.EGCG

EGCG là thành phần của trà xanh và được tìm thấy ở hạt nho và kiều mạch. EGCG đã cho thấy những ứng dụng đây hứa hẹn trong việc phục hồi sức khỏe làn da với đặc tính bảo vệ da, chống viêm và khả năng kích thích tăng sinh tế bào sừng, trà đen có hàm lượng EGCG thấp hơn so với lá trà xanh nguyên nhân xuất phát từ quá trình xử lý lá quá kỹ.

4. Genistein

Genistein được biết đến như là một isoflavone thuộc họ polyphenol được phân lập từ đậu nành. Phytoestrogen này có cấu trúc tương tự như estrogen của con người nhưng có tác dụng kháng estrogen và kháng estrogen yếu. genistein có lợi cho da bằng cách tăng độ dày của da, giảm nếp nhăn trên mặt ở nữ giới đồng thời bảo vệ da khỏi tia UVR EROS , quá trình peroxy hóa lipid và tăng biểu hiện gen collagen. Genistein cũng được sử dụng để giảm sự đổi màu da, ban đỏ và viêm

5. Lutein

Lutein, lycopene và zeaxanthin có cấu trúc tương tự nhau như những chất chống oxy hóa carotenoid. Được xem như loại màu thực phẩm ở Hoa Kỳ với các loại như vàng tươi, cam hay đỏ. lutein rất tốt khi sử dụng cho bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác( AMD) nhờ vào khả năng hấp thụ ánh sáng xanh và ngăn ngừa tác hại gây ra bởi tia UVR. Nó cũng mang lại những lợi ích tương tự như những chất chống oxy hóa hấp thụ UVR.

6. Niacinamide

Niacinamide là một dẫn xuất của niacin vả có hiệu quả tương tự niacin , không gây đỏ da ở liều cao. Niacin và các dẫn xuất của nó được sử dụng trong việc chống viêm, khuyến khích sự thay đổi của da và làm sáng da. Vitamin B góp phần làm sáng da bằng cách ức chế việc chuyên hóa các melanosome từ tế bào hắc tố sang tế bào biểu bì sừng.

7. Vở cây thông biên ở Pháp

Là loài cây thuộc loài Pinus pinaster, một chất chống oxy hóa phổ biến mới có khả năng tái tạo vitamin c và E giúp cải thiện độ đàn hồi cho làn da, quá trình cung cấp độ ẩm cho da và tổng hợp collagen..

8. Silymarin

Silymarin – một chiết xuất tiêu chuẩn hóa từ hạt cây kế sữa, đông thời là một chất chống oxy hóa thuộc nhóm polyphenol được sử dụng để giảm viêm, bảo vệ khỏi tác động của tia UVR và kích thích quá trình chữa lành cho da. Silymarin mang các đặc tính chống ung thư cho da và các bệnh ung thư khác.

9.Ubiquinone

Ubiquinone hoặc ubidecarenone được biết đến với cái tên coenzyme Q10 hay đơn giản là CoQlO. là một chất chống oxy hóa, CoQlO được sử dụng rộng rãi nhờ có tác dụng đối với bệnh nhân suy tim bằng cách ngăn chặn quá trình peroxy hóa lipid. CoQlO tái tạo vitamin E bị mất đi và nó được tái tạo lại bởi axit alpha-lipoic. Ubiquinone được chứng minh là có tác dụng làm giảm sự phân hủy collagen bằng cách giảm collagenase, đồng thời nó giúp tăng cường khả năng tự chữa lành sau khi điều trị da bằng laser.

10. Ascorbic Acid

Axit ascorbic dạng L- ascorbic và gốc cacbon của vitamin C là chất chống oxy hóa cực kỳ hiệu quả chỉ xếp sau vitamin E về lượng dồi dào trong da. Vitamin C được có mặt trong nhiều loại sản phẩm chăm sóc da giúp giảm nếp nhăn, giảm viêm, đảo ngược tổn thương do tiếp xúc với tia UVR, làm sáng da, tái tạo DNA bị hư hỏng đồng thời kích thích tổng hợp collagen và elastin.

11.Vitamin E

Vitamin E là chất chống oxy hóa chính trong lớp sừng, được tái tạo bởi axit alpha-lipoic, glutathione và ubiquinone, vitamin E có hiệu quả trong việc làm mềm da khô, ngăn cản tác hại của tia UVR và chống viêm. Bổ sung liên tục là điều cần làm để duy trì mức độ cao trong da. Việc kết hợp vitamin E với axit ascorbic đã được chứng minh mang lại hiệu quả trong việc làm giảm mẩn đỏ do tia UVR gây ra.

12. Grape Seed Extract

Chiết xuất từ hạt nho có các chất chống oxy hóa, chống viêm, chất kháng histamin và anti- mutagenic. Nhiều thành phần có lợi trong hạt nho như EGCG,axit alpha-lipoic,vitamin E và OPCs giúp ổn định collagen và elastin( một loại protein]. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung
qua đường miệng giúp giảm nguy cơ ung thư biểu mô tế bào vảy – một loại ung thư da phổ biến thứ hai ở Hoa Kỳ.

13.Resveratrol

Resveratrol được tìm thấy với số lượng lớn trong vỏ nho, lựu và một số loại quả mọng, thường liên quan đến những lợi ích từ chế độ ăn kiểu Địa Trung Hải và hiện tượng nghịch ký kiểu pháp, resveratrol được hấp thụ dễ dàng và chuyên hóa nhanh chóng. Nó được chứng minh có tác dụng ức chế tyrosinase và chống viêm đông thời mang đặc tính ngăn ngừa ung thư.

14. Beta-Carotene

Beta-carotene thuộc loại tiền vitamin A. Khả dụng sinh học thông qua đường uống của beta-carotene thấp và phụ thuộc vào nguồn, số lượng và hàm lượng chất béo trong chế độ ăn. Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa nhiều beta-carotene như cà rốt, khoai lang và bí ngô có thể gây ra chứng da xanh hoặc da cam, nhưng rất ít có khả năng gây ra chứng tăng vitamin A.

15.Vitamin D

Vitamin D rất cần thiết cho da, tạo ra tình trạng khó xử giữa việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để cung cấp cho việc tổng hợp vitamin D, chống lại ánh nắng mặt trời gây hại cho quá trình lão hóa do tia UVR và tăng nguy cơ ung thư. Khuyến cáo sử dụng các biện pháp bảo vệ quang có thể làm ảnh hưởng đến việc cung cấp đủ vitamin D. Tuy nhiên, không có mức độ phơi nhiễm UVR an toàn được thiết lập để cung cấp cho quá trình tổng hợp vitamin D ở da mà không làm tăng nguy cơ ung thư da. Vitamin D hòa tan trong chất béo, được lưu trữ trong gan và chất béo, và không phải là một vitamin thực sự vì nó được tạo ra một cách dễ thương thông qua tia UVR. Vitamin D thường đề cập đến cả hai dạng vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Vitamin D2 và D3 về cơ bản là tương đương nhau vì cơ thể chúng ta sử dụng chứng tương tự nhau, ngoại trừ vitamin D3 có thể có sinh khả dụng cao hơn vitamin D2 ở liều cao hơn. Mặc dù liều lượng chính xác và nồng độ vitamin D huyết thanh tương ứng chưa được thiết lập để có sức khỏe làn da tối ưu, việc bổ sung vitamin D cho hầu hết bệnh nhân có thể được khuyến nghị một cách an toàn với liều lượng hàng ngày lên đến giới hạn trên (UL) là 4.000 IU.

Các nguồn Vitamin D

Vitamin D thu được từ quá trình quang hợp của biểu bì, thông qua chế độ ăn uống và việc bổ sung thêm dưỡng chất. Cơ thê con người tổng hợp vitamin D từ pro vitamin D3 (7-dehydrocholesterol) thông qua chiếu tia UVB. Nguồn thức ăn bao gồm các loại cá giàu chất béo, lòng đỏ trứng và các sản phẩm bổ sung như sữa, ngũ cốc và nước cam. Lượng vitamin D cao nhất được tìm thấy trong các loại cá béo, đặc biệt là cá kiếm, cá hồi và cá ngừ (Bảng 13.2).

Thiếu vitamin D

Thiếu vitamin D thường liên quan đến một số bệnh và ảnh hưởng đến xương, đường tiêu hóa, tim, phổi, thận và tuyến giáp, bao gồm bệnh tiểu đường, ung thư và các tình trạng viêm. Nồng độ vitamin D trong huyết thanh thấp có thể do nhiều nguyên nhân. Việc thiếu hụt khả năng hấp thụ tia UVB và khả năng hoạt động của vitamin D có thể là kết quả của lượng melanin trong da cao, khả năng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời bị hạn chế do khí hậu hoặc nghề nghiệp và tuổi già, có liên quan đến việc tiếp xúc ít và tổng hợp kém hiệu quả. Sự chiếu xạ của tia UVB cũng bị thủy tinh cản lại, vả tất cả trừ một nửa sẽ xuyên qua mây và ô nhiễm. Kem chống nắng và quần áo cũng có thể ngăn tia UV chiếu vào da. Chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt bao gồm cả thuần chay và tránh đường lactose cũng có thể hạn chế lượng vitamin D (Box 13.2). Bởi vì một số chất béo trong chế độ ăn cần thiết để hấp thụ vitamin D, bô sung đường uống hoặc tiêm bắp liều cao có thê cần thiết cho những bệnh nhân kém hấp thu chất béo, bao gồm cả những người bị bệnh gan hoặc dạ dày. Vitamin D hòa tan trong chất béo và được tách biệt bởi lớp mỡ dưới da, vì vậy bệnh nhân béo phì có thể có nồng độ huyết thanh thấp do lượng vitamin D được giải phóng vào tuần hoàn bị hạn chế. Việc kích hoạt vitamin D thành dạng hoạt động 1,25 (OH) 2D có thể bị hạn chế do rối loạn chức năng thận, liệu pháp steroid hoặc bệnh viêm gây ra.

Bảng 13.2: Các loại thực phẩm giàu vitamin D
Bảng 13.2: Các loại thực phẩm giàu vitamin D
Box13.2: Chế độ ăn nghiêm ngặt
Box13.2: Chế độ ăn nghiêm ngặt

Vitamin D Toxicity

Nguy cơ nhiễm độc rất dễ xảy ra do tiếp xúc quá nhiều với tia UV hoặc chế độ ăn nhiều thực phẩm vitamin D và thường là do bố sung vitamin D trên mức UL từ 4.000 lư đến 10.000 lư hoặc hơn mỗi ngày. Một nghiên cứu cho thấy việc cung cấp vitamin D 5.000 lư / ngày làm tăng nồng độ 25 [OH] D trong huyết thanh từ 100 đến 150 nmol / L. Mức 25 (OH) D cao được coi lả trên 125 nmol / L và mức độc hại được đề xuất là trên 500 nmol / L. Các triệu chứng nhiễm độc bao gồm loạn nhịp tim, đa niệu và sụt cân. Khi lượng canxi tăng cùng với lượng vitamin D, có thể xảy ra sỏi thận và vôi hóa mạch máu và mô mềm như tim, thận và ruột.

Vitamin D Monitoring Levels- Mức độ theo dõi vitamin D

Mức độ tiếp xúc với vitamin D được đo thông qua nồng độ trong huyết thanh của vitamin D dạng 25 (OH) D và dạng hoạt tính sinh học 1,25 (OH) 2D (Hộp 13.3). 25 (OH) D có thời gian bán hủy dài là 15 ngày và được công nhận là dấu ấn sinh học tốt nhất để tiếp xúc với vitamin D. Ngược lại, mức 1,25 (OH) 2D rất thay đổi với thời gian bán hủy dưới một ngày vả bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nồng độ hormon tuyến cận giáp (PTH), canxi và phốt pho trong huyết thanh. Mức 1,25 (OH) 2D chỉ đáng kê khi thiếu hụt vitamin D nghiêm trọng. Mức độ vitamin 25 (OH) D trong huyết thanh cho sức khỏe làn da tối ưu vẫn chưa được thống nhất, mặc dù việc theo dõi có thể hữu ích để xác định những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh ở mức độ thấp và những bệnh nhân có khả năng nhiễm ở mức độ độc hại cao.

Box 13.3: Vitamin D monitoring levels
Box 13.3: Vitamin D monitoring levels

Sự cung cấp Vitamin D

Chế độ ăn được khuyến nghị (RDA) cho người lớn là 600 IU / ngày, đối với những người từ 70 tuổi trở xuống và 800 IU / ngày cho những người trên 70 tuổi (Box 13.4). Tuy nhiên các khuyến nghị RDA bị nghi ngờ là quá thấp và không tính đến lượng vitamin D được tổng hợp từ UVR. 37% dân số Hoa Kỳ dùng thực phẩm bổ sung hàng ngày có chứa vitamin D. Khảo sát Kiểm tra Dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia (NHANES) từ năm 2005 đến 2006 chỉ ra rằng mức 25 (OH) D trung bình trên 50 nmol / L, phù hợp với lượng vitamin hấp thụ D từ chế độ ăn uống và bổ sung tương đương với lượng RDA. Bô sung vitamin D có mối quan hệ phi tuyến với mức 25 (OH) D. Các ước tính nêu rõ rằng với liều dưới 600 IU / ngày, nồng độ 25 (OH) D huyết thanh sẽ tăng 2,3 nmol / L cho mỗi 40 IU được bổ sung hàng ngày. Liều lớn hơn 1.000 IU / ngày được ước tính làm tăng nồng độ 25 (OH) D trong huyết thanh thêm 1 nmol / L cho mỗi 40 IU khi được cung cấp mỗi ngày.

Box 13.4: Chế độ vitamin D được khuyến nghị
Box 13.4: Chế độ vitamin D được khuyến nghị

Yêu cầu về việc phơi nhiễm bức xạ tia cực tím

Lợi ích của việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời là tăng cường sức sống vả giải phóng endorphin, nâng cao mức vitamin D, kích thích melanization biểu bì và tăng chất ức chế khối u “người giám hộ của bộ gen” p53 trong da. Việc tích tụ p53 trong da có thể làm gián đoạn chu kỳ của các tế bào bị tổn thương tạo điều kiện cho việc điều chỉnh quá trình sửa chữa DNA và kích thích quá trình apoptosis nếu bị tổn thương không thể hồi phục. Điểm quan trọng của việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nằm ở việc xác định lượng UV “an toàn”, cho phép đạt được những lợi ích mà không gây ra bất kỳ hậu quả tiêu cực. UVR và tiếp xúc với ánh nắng mặt trời được mô tả là “chất gây ung thư hoàn toàn” vì chúng gây đột biến gián tiếp và trực tiếp, với những tổn thương không đặc hiệu là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển các khối u. Tổn thương UVR cũng dẫn đến thay đổi sắc tố da, teo da, nhăn nheo, tăng sản biểu bì và chết tế bào.

Ung thư da

Tỷ lệ ung thư da đang gia tăng và hiện nay được xem như loại ung thư phổ biến nhất, ước tính có khoảng 1,5 triệu ca mỗi năm ở Hoa Kỳ. Tiếp xúc với tia UV là nguyên nhân chính của ba loại ung thư da phổ biến nhất: ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tế bào vảy và u hắc tố ác tính. Ung thư da cũng là nguyên nhân gây ra hơn một nửa số ca ác tính. Những người có nguy cơ cao nhất là những người có khuynh hướng di truyền nhạy cảm với tia UVR, những người có làn da trắng và những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, phẫu thuật cắt bỏ thường có thể để lại các khuyết điểm như sẹo và không phải là hướng giải quyết hữu hiệu cho sức khỏe của da. Bảo vệ khỏi tia cực tím và bổ sung vitamin D là những bước phòng ngừa cần thiết mà một người có thể thực hiện để giảm nguy cơ ung thư da.

Nghiên cứu về Vitamin D và Ung thư Da

Trong khi nhiều chất chống oxy hóa đã được chứng minh là làm giảm tổn thương ADN do ROS (gốc tự do oxy hóa) gây ra, thì vitamin D lại có khả năng không chỉ làm giảm tốn thương DNA mà còn tăng khả năng sửa chữa DNA của cả tổn thương oxy hóa và sự hình thành vết mờ. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu, mối tương quan thuận giữa nồng độ 25 (OH) D huyết thanh và ung thư biểu mô tế bào đáy đã tạo ra sự không chắc chắn về mối liên hệ giữa chúng. Một tia UVR gây tổn thương ADN và làm tăng nguy cơ ác tính biểu bì là nguyên nhân tổng hợp vitamin D. Vitamin D và các thụ thể vitamin D (VDR) đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ da tránh khỏi sự hình thành ung thư bằng cách kiểm soát sự tăng sinh và biệt hóa tế bào sừng, cũng như tăng cường khả năng sống sót của tế bào. Câu hỏi đặt ra là liệu việc tăng tỷ lệ sống sót của các tế bào bị tổn thương ADN do UVR gây ra có thể dẫn đến tăng nguy cơ ung thư hay không? ở chuột các tế bào thiếu VDR tiếp xúc với UVR có khuynh hướng hình thành khối u biểu bì, cụ thể là ung thư biểu mô tế bào đáy. Nghiên cứu này suy đoán rằng VDR hạn chế sự hình thành khối u và thúc đẩy quá trình sửa chữa DNA. 1.25 [OH] 2D được bôi tại chỗ bảo vệ khỏi ảnh hưởng bởi tia cực tím UVR, tăng khả năng sửa chữa DNA của các hình thành mờ, tăng khả năng sống sót của tế bào và tăng biểu hiện p53. Vitamin D bôi tại chỗ cũng điều chỉnh sự tăng sinh, biệt hóa và tín hiệu VDR. Vitamin D tạo điều kiện thuận lợi cho việc sửa chữa DNA sau khi tiếp xúc với tia UV bằng cách tăng p53 trong tế bào sừng và tế bào hắc tố đồng thời tăng các enzim sửa chữa loại bỏ nucleotide.

Kết luận về vitamin D

Vì vitamin D có sẵn trong rất ít thực phẩm nên việc bổ sung bằng đường uống vẫn được khuyến khích áp dụng cho hầu hết bệnh nhân. Nếu không có mức phơi nhiễm UVR an toàn được thiết lập đê tông hợp đầy đủ vitamin D, khuyến nghị về bảo vệ quang, đặc biệt là đối với những người có làn da trắng, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục vận động. Vitamin D có tác dụng bảo vệ chống lại các tác nhân gây ung thư nhờ ngăn chặn quá trình chết tế bào và tổn thương DA do UVR gây ra, tăng tốc độ sửa chữa DNA, ức chế sự ức chế miễn dịch do VIRUS gây ra và điều chỉnh chất chống oxy hóa nội sinh. Đối với hầu hết các bệnh nhân, nên tăng cường chế độ ăn với các loại thực phẩm giàu vitamin D và kết hợp việc bổ sung an toàn (Box 13.5).

Box 13.5: Vitamin D Chart 7
Box 13.5: Vitamin D Chart 7

16. Glutathione

Glutathione được xem là chất chống oxy hóa quan trọng nhất trong cơ thể và có lợi cho sức khỏe làn da. Glutathione trong da có thể tái tạo các chất chống oxy hóa khác, bảo vệ khỏi ROS gây ra bởi tia UVR, giải độc vả đồng thời làm sáng da.

Duy trì lượng glutathione đầy đủ cho cơ thể và làn da là điều cần thiết để quản lý và duy trì sức khỏe làn da tối ưu. Có mặt khắp cơ thể, bao gồm cả da, glutathione được biết đến là chất chống oxy hóa chính, chất kéo dài tuổi thọ, chất giải độc và là mẹ của tất cả các chất chống oxy hóa. Nó được trích dẫn trong hơn 100.000 bài báo khoa học, đưa ra cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của nó được xem như một thành phần thiết yếu đối với sự sống ,một chất chống oxy hóa nội bào và ngoại bào quan trọng nhất.

Glutathione được biết đến với khả năng giải độc rộng rãi trong gan khỏi nhiều hợp chất có hại, bao gồm thuốc men, chất gây ung thư và các chất độc khác. Trong toàn bộ cơ thế, glutathione cũng 1) bảo vệ tế bào khỏi tác hại của ROS, 2) hoạt động như một động yếu tố để kích hoạt và điều hòa nhiều enzym, 3) bổ sung cho hệ thống miễn dịch, 4) là chất vận chuyển axit amin hiệu quả, và 5) có liên quan trong tổng hợp DNA, protein và prostaglandin. Glutathione cũng được sử dụng như một chất làm trắng vì nó ức chế hoạt động của tyrosinase. Việc thiếu glutathione liên quan đến sức khỏe và hệ thống miễn dịch hoạt động kém. Mức độ glutathione thấp cũng có liên quan đến căng thẳng oxy hóa cao, lão hóa vả nhiều bệnh khác.

Sinh khả dụng

Glutathione là một loại protein nhỏ dễ tiêu hóa khi hấp thụ bằng đường uống mà không có can thiệp thích hợp từ các enzym tiêu hóa. Đê glutathione đạt được mục tiêu trong da, trước tiên nó phải tồn tại qua đường tiêu hóa, được hấp thu qua hàng rào ruột, duy trì hoạt động thông qua quá trình trao đổi chất đầu tiên của gan, và tiếp tục qua tuần hoàn để đến da. Thật không may, sự hấp thụ của tế bào yếu được quan sát thấy do cấu trúc lớn và thiếu cơ chế vận chuyển đầy đủ.

Sự bổ sung

Đê nâng cao lợi ích của glutathione, cân có nhiều cơ chế để duy trì mức độ cao trong cơ thể, bao gồm cung cấp đủ các tiền chất thiết yếu, đông yếu tố, chất tái tạo và điều chỉnh lối sống như chế độ ăn uống và tập thể dục.

Nồng độ glutathione tăng lên khi các tiền chất thiết yếu, đặc biệt là các hợp chất có chứa cysteine như N-acetyl cysteine và cystine, được tiêu hóa. Folate, selen, vitamin B6 và vitamin B12 cũng là những động yếu tố thiết yếu cần thiết cho việc sản xuất và tái tạo glutathione. Axit alpha- lipoic và vitamin c và E cũng có thể tái tạo glutathione bị oxy hóa. Để tăng mức độ hiệu quả, phải thực hiện các biện pháp để giảm các tình trạng căng thẳng khác nhau làm cạn kiệt glutathione. Bô sung chế độ ăn uống với glycine, silymarin và thực phẩm giàu lưu huỳnh, chẳng hạn như tỏi, hành tây, bông cải xanh và cải xoăn, cũng có lợi. Các nghiên cứu cho thấy rằng tập thể dục thường xuyên cũng có thể cải thiện mức glutathione.

Ngày viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *