Liệu pháp kết hợp Peel trong mụn trứng cá

Tạp chí da liễu – Chủ đề: Liệu pháp kết hợp Peel trong mụn trứng cá

DAVID Surprenant, JEAVE RESERVA, Rebecca Tung

Biên dịch: BS Đoàn Hiền

Phần giới thiệu

Mụn trứng cá thông thường là một tình trạng viêm nhiễm cực kỳ phổ biến trong suốt cuộc đời chiếm khoảng 80%. Mụn trứng cá có liên quan đến trầm cảm, lo lắng và tự ti; Mụn trứng cá không được điều trị hoặc quản lý kém thường có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và gây ra các chi phí kinh tế xã hội và chăm sóc sức khỏe. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của một phương pháp điều trị mụn hiệu quả và tiết kiệm chi phí.

Hiểu chính xác về quá trình bệnh là điều cần thiết  để lập kế hoạch điều trị mụn trứng cá. Cơ chế bệnh sinh của mụn trứng cá là đa yếu tố và bắt đầu bằng sự kết dính lớp tế bào giác sừng (box 10.1). Khi các tế  bào sừng tập hợp gây cản trở tuyến bã nhờn, trong khi bã nhờn được tăng sản xuất đồng thời bởi tác nhân nội tiết. Sự kết hợp giữa tắc nghẽn tuyến bã và tiếp tục sản xuất bã nhờn tạo ra một môi trường có lợi cho sự phát triển của vi khuẩn, cụ thể là vi khuẩn gram dương Propionibacterium acnes (Cutibacterium acnes). Phản ứng viêm dẫn đến mụn trứng cá là hậu quả nhìn thấy trên lâm sàng: comedones, mụn mủ, sẩn viêm và mụn nang. Nếu nghiêm trọng, quá trình viêm này có thể dẫn đến sẹo và thường xuyên gặp phải.

Có một số cách tiếp cận để điều trị mụn trứng cá, và các phương pháp điều trị khác nhau nhắm vào các bước cụ thể trong quá trình bệnh: giảm độ kết dính của tế bào sừng, giảm thiểu sản xuất bã nhờn và giảm số lượng vi khuẩn. Xử trí thường được tiếp cận theo cách thức  từng bước: retinoids tại chỗ và kháng sinh tại chỗ cho mụn trứng cá ban đầu, kháng sinh toàn thân bổ trợ và / hoặc kháng androgen cho mụn viêm, và retinoids tổng hợp cho các trường hợp nghiêm trọng hoặc dai dẳnng. Ngoài ra còn có một số liệu pháp bổ trợ cho cả mụn trứng cá đang hoạt động và sẹo mụn trứng cá, bao gồm liệu pháp dựa trên ánh sáng (liệu pháp quang động, laser nhuộm xung, laser CO2) và liệu pháp cơ học (microneedling, microdermabrasion).

Lột da hóa học đại diện cho một lựa chọn điều trị bổ trợ hiệu quả,  dung nạp tốt và tiết kiệm cho mụn trứng cá và  sẹo mụn. Là một phương thức điều trị mụn trứng cá  thường được sử dụng, chương này nhằm mục đích giới thiệu lại lột da hóa học như một công cụ có giá trị đáng được xem xét khi tiếp cận bệnh nhân mụn  trứng cá. Lột da hóa học có chi phí thấp, ít tác dụng phụ và là một phương pháp hiệu quả để điều trị mụn trứng cá và sẹo mụn. Đối với những bệnh nhân bị mụn trứng cá viêm nặng, chỉ nên cân nhắc sử dụng bổ trợ lột da hóa học sau khi cải thiện tình trạng bệnh lần đầu  bằng thuốc điều trị toàn thân

Tại sao dùng Peel hóa học cho mụn?

Nói chung, lột da hóa học hoạt động bằng cách gây ra tổn thương da được kiểm soát và thúc đẩy tái tạo biểu bì và da. Cơ chế hoạt động và đặc điểm của nhiều loại lột tẩy hóa học khiến chúng rất thích hợp để điều trị mụn tích cực và sẹo mụn. Nhiều loại peel hóa học thể hiện tác dụng tiêu sừng và tiêu mụn, đặc biệt hữu ích đối với mụn trứng cá không viêm– comedon. Peel hóa học cũng có thể làm giảm sản xuất bã nhờn và kích thước lỗ chân lông, và nhiều loại còn kháng khuẩn và giảm viêm.

Nói chung, lột da hóa học hoạt động bằng cách gây ra tổn thương da được kiểm soát và thúc đẩy tái tạo biểu bì và da. Cơ chế hoạt động và đặc điểm của nhiều loại lột tẩy hóa học khiến chúng rất thích hợp để điều trị mụn tích cực và sẹo mụn. Nhiều loại peel hóa học thể hiện tác dụng tiêu sừng và tiêu mụn, đặc biệt hữu ích đối với mụn trứng cá không viêm- comedon. Peel hóa học cũng có thể làm giảm sản xuất bã nhờn và kích thước lỗ chân lông, và nhiều loại còn kháng khuẩn và giảm viêm

Lựa chọn bảng thành phần
Lựa chọn bảng thành phần

Trên da mụn. Thêm vào đó, phá hủy lớp da có kiểm soát bới peel hóa học thúc đẩy sự hấp thu của  các thuốc bôi mụn ngoài da, tăng tác dụng dược lý của chúng. Khi tăng hiệu quả thuốc bôi, thuốc hệ thống và tránh được rủi ro và tiết kiệm chi phí. Mặc dù peel hóa học là phương thức bổ trợ tuyệt vời trong điều trị mụn comedon mức nhẹ đến trung bình và mụn viêm, peel hóa học không đánh giá cao trong điều trị mụn viêm và mụn nang nặng. Mà chúng phải được kiểm doát bằng thuốc trước khi tiến hành peel.

Xem thêm: Sự liên quan về mặt khoa học giữa chế độ ăn và mụn trứng cá

Chất peel cho từng người bệnh

Có rất nhiều công thức peel hóa học và điều trị. Khi điều trị mụn trứng cá thông thường, thường sử dụng peel nông hoặc peel ánh sáng. (Bảng 10.1; see also Trang 4). Peel sâu phụ thuốc vào tác nhân peel và nồng độ, chuẩn bị trước peel và thời gian tiếp xúc trên da. Peel nông kiểm soát sự phá hủy thượng bì ở da mụn. Giới hạn peel giúp cải thiện đáng kể sự khó chịu hay thời gian chờ. Salicylic acid(SA) (5% –30%) và axit glycolic (GA) (20% –70%) là những chất được sử dụng phổ biến nhất để điều trị mụn trứng cá từ nhẹ đến trung bình và mụn viêm Các tác nhân bổ sung được sử dụng bao gồm axit lactic (LA), axit mandelic (MA), axit trichloroacetic (TCA) và dung dịch Jessner (JS). Chất lượng độc đáo của từng tác nhân, cùng với sự tự tin của người thực hành và đặc điểm của bệnh nhân, giúp hướng dẫn lựa chọn hóa chất lột da. Ngoài ra, việc sử dụng các phương pháp điều trị lột da bằng hóa chất kết hợp — điều trị bệnh nhân theo cách tuần tự với một chất lột da sau đó là một chất khác — có thể được xem xét khi phát triển một kế hoạch điều trị.

Salicylic Acid

SA là một beta-hydroxy acid thường sử dụng điều trị mụn trứng cá thông thường. Nó tiêu sừng mạnh và giảm tỉ lệ mụn. SA thúc đẩy quá trình bong vảy của các lớp ưa mỡ trên của lớp sừng, dẫn đến quá trình bong vảy và trẻ hóa bề mặt. SA cũng thâm nhập vào các lỗ chân lông và có đặc tính kháng khuẩn và chống viêm. SA cũng có thể làm giảm sản xuất bã nhờn ở những bệnh nhân bị mụn trứng cá. Trong các nghiên cứu lâm sàng, peel SA đã được chứng minh là làm giảm số lượng các tổn thương viêm và không viêm ở bệnh nhân.

Hình ảnh minh họa

Hình ảnh minh họa
Hình ảnh minh họa

Glycolic Acid

GA là một alpha-hydroxy acid có nhiều tác dụng với SA. Đặc biệt, GA giảm kết dính của tế bào corneocyte và tế bào sừng. GA cũng được chứng minh giảm viêm chống lại vi khuẩn P. acnes. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng duy nhất được công bố so sánh peel hóa học với giả dược trong điều trị mụn trứng cá đã chứng minh sự cải thiện thống kê ở cả tổn thương viêm và không viêm với GA. Kết quả điều trị mụn bằng GA phần lớn tương đương với kết quả với SA. Một nghiên cứu lâm sàng cho thấy bệnh nhân ưa thích GA hơn SA (41% tương đương 35%), nhưng lý do cơ bản và dấu hiệu lâm sàng của sự ưa thích này là không rõ ràng và chưa được nhân rộng trong các nghiên cứu bổ sung. GA yêu cầu phải trung hòa bằng dung dịch kiềm để ngăn chặn các tác động gia tăng, điều này cần được xem xét khi lựa chọn tác nhân này. Khoảng thời gian thi công lâu hơn trước khi trung hòa dẫn đến sự thâm nhập của lớp peel hóa học tăng lên. Các phác đồ điều trị thường sử dụng GA từ 30% đến 50% mỗi 2 tuần, trong 3 đến 5 phút trong ba đến sáu lần điều trị (Figs. 10.5–10.8). Nồng độ cao hơn sẽ yêu cầu điều trị ngắn và nhanh nhưng có khả năng làm bệnh nhân khó chịu và nhiều rủi ro.

Thông thường, GA peels an toàn và chấp nhận được, với các tác dụng ngoại ý thông thường chỉ giới hạn ở nóng và ban đỏ thoáng qua trong thủ thuật và bong vảy sau thủ thuật. Mặc dù dữ liệu an toàn còn hạn chế, GA thường được coi là an toàn cho bệnh nhân  mang thai do khả năng xâm nhập qua da của nó hạn chế.

Trichloroacetic Acid

TCA là một hợp chất vô cơ dạng tinh thể gây ra tổn thương mô có kiểm soát thông qua sự biến tính của protein biểu bì và da. Các nồng độ khác nhau của TCA gây ra các mức độ tổn thương mô khác nhau. Mặc dù nồng độ cao hơn thường được sử dụng để tái tạo và trẻ hóa bề mặt, nhưng 20% đến 25% TCA có thể được sử dụng để điều trị mụn trứng cá. Các tài liệu đã xuất bản cho thấy rằng 25% TCA được áp dụng 2 tuần một lần trong bốn buổi điều trị có hiệu quả tương tự như 30% SA được áp dụng mỗi 2 tuần trong bốn buổi điều trị mụn trứng cá tích cực. Nồng độ TCA cao hơn có liên quan đến nguy cơ mắc chứng rối loạn sắc tố sau peel da cao hơn và nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có loại da sẫm màu hoặc ở bất kỳ người nào dễ bị tăng sắc tố. Mặc dù tự trung hòa, nên dùng dung dịch kiềm để tránh điều trị quá mức không chủ ý. TCA tiêu điểm, ở nồng độ 90% đến 100%, đặc biệt hữu ích trong việc giải quyết sẹo mụn, đặc biệt là với kỹ thuật tái tạo da bằng hóa chất (CROSS), được mô tả ở phần sau.

Jessner’s Solution

JS là một chất lột tẩy bề mặt bao gồm 14% SA, 14% resorcinol và 14% LA trong 95% etanol. JS thường  được sử dụng để tăng cường sự thâm nhập và hiệu quả của các chất peel độ sâu trung bình để tái tạo bề mặt nhưng có thể được sử dụng một mình để điều trị mụn trứng cá. JS được dung nạp tốt và các tác dụng ngoại ý được giới  (tức là nóng bỏng hoặc châm chích), ban đỏ và bong vảy sau thủ thuật. Rối loạn sắc tố là rất hiếm. JS thường được áp dụng 2 tuần một lần trong ba đến sáu phiên. JS biến tính (17% LA, 17% SA, và 8% axit xitric trong 95% ethanol) cũng có thể được xem xét để điều trị mụn trứng cá. Mod- ified JS thiếu resorcinol, một thành phần có thể dẫn đến các tác dụng phụ không mong muốn như phản ứng dị ứng và ngất.

Lactic Acid

LA là một axit alpha-hydroxy khác thường được sử dụng kết hợp với các chất peel khác để điều trị mụn trứng cá. LA làm giảm độ kết dính của corneocyte và cũng có tác dụng làm mờ da. Tác dụng thứ hai này có thể hữu ích đặc biệt vì nhiều phương pháp điều trị mụn trứng cá tại chỗ, chẳng hạn như retinoids và benzoyl peroxide, đặc biệt làm khô da. Phân tích in vitro đã chứng minh khả năng của LA (300 μg / mL) để ngăn chặn tyrosinase và ức chế hình thành hắc tố. Do đó, việc bổ sung LA có thể giúp làm sáng da và có thể làm giảm nguy cơ tăng sắc tố da do quy trình. Một số sản phẩm lột tẩy trộn sẵn có chứa axit lactic được bán trên thị trường bao gồm Vitalize Peel (Allergan Plc) và Ultra Peel Forte (PCA SKIN). Không có dữ liệu được công bố điều tra việc sử dụng LA đơn trị liệu để điều trị mụn trứng cá hoạt động, mặc dù việc sử dụng LA nồng độ cao (46% – 92%) đã chứng minh lợi ích đối với sẹo mụn nông. LA có độ pH thấp hơn axit glycolic, và do đó nồng độ LA thấp hơn nói chung có thể được sử dụng để đạt được hiệu quả điều trị tương tự. Cũng như với axit glycolic, cần phải trung hòa bằng axit lactic.

Mandelic Acid

MA là một axit alpha-hydroxy phân tử lớn với khả năng thâm nhập biểu bì chậm. Tương tự như các axit alpha-hydroxy khác được mô tả, MA làm giảm độ kết dính của corneocyte và gây tiêu sừng. Ngoài điều trị mụn trứng cá, MA giúp trẻ hóa và sáng da.

MA có thể kết hợp SA trong điều trị mụn trứng cá thông thường, Một nghiên cứu kết hợp 10% MA và 20% SA (2 tuần 1 lần trong 6 lần) vượt trội so với 35% GA (mỗi 2 tuần trong sáu lần) để giảm mụn bọc, mụn mủ, mụn viêm và tổng điểm mụn. Sự kết hợp giữa MA và SA gây ra hiện tượng bong tróc da sau phẫu thuật rõ ràng hơn so với chỉ dùng GA. Là đơn trị liệu, MA ít  tác dụng hơn axit glycolic và có thể sử dụng khoảng thời gian điều trị ngắn hơn. Một số nguồn khuyến nghị giới hạn thời gian tiếp xúc MA là 5 phút. Cần có sự trung hòa khi kết thúc peel.

Pyruvic Acid

Axit pyruvic (PA) là một α-ketoacid được sử dụng để gây bong tróc bề mặt. Với đặc tính tiêu sừng, kháng khuẩn và giảm nhờn, PA cũng có thể được sử dụng cho mụn trứng cá hoạt động. Năm mươi phần trăm PA có thể được áp dụng 2 tuần một lần trong khoảng năm buổi điều trị để tăng cường điều trị mụn trứng cá. Thời gian tiếp xúc xử lý điển hình là 3 đến 5 phút, và cần phải trung hòa axit bằng dung dịch kiềm. PA là một chất lột tẩy được dung nạp tốt với những tác dụng phụ tương tự như những tác dụng phụ liên quan đến axit salixylic.

Loại peel sẵn trên thị trường

Có rất nhiều công ty chăm sóc da với các sản phẩm lột da hóa học độc quyền có bán trên thị trường có thể được sử dụng như một liệu pháp bổ trợ cho mụn trứng cá. Các sản phẩm này thường chứa nhiều hỗn hợp các chất khác nhau và đi kèm với các quy trình xử lý do nhà sản xuất đề xuất. Nhiều sản phẩm trộn trước có chứa sự kết hợp của TCA nồng độ thấp hơn (6% –20%) hoặc axit salicylic (14%) được trộn với sự kết hợp của một hoặc một số thành phần khác như axit lactic (12% – 20%), Kojic axit, axit azelaic, axit L-ascorbic, retinol, axit citric, v.v. Những thành phần bổ sung này nhằm mục đích bổ sung hoặc tăng cường các lợi ích của vỏ như làm sáng da, hydrat hóa và tẩy tế bào chết.

Sẹo mụn

Lột da hóa học thường được sử dụng để tái tạo bề mặt da và cải thiện kết cấu và sẹo. Mặc dù việc tái tạo bề mặt da bằng lột da hóa học nói chung có thể cải thiện kết cấu và rối loạn sắc tố, nhưng kỹ thuật CROSS có thể đặc biệt hữu ích để điều trị sẹo lõm hoặc “icepick” . Lần đầu tiên được mô tả bởi Lee et al. vào năm 2002, kỹ thuật này liên quan đến việc áp dụng tiêu điểm TCA nồng độ cao (50% –100%) trực tiếp lên các vết sẹo mụn bằng cách sử dụng một  dụng cụ bôi chính xác, thường là một dụng cụ bôi gỗ nhọn hoặc thậm chí là một cây kim . Kĩ thuật này có thể được lặp lại mỗi 4 đến 6 tuần trong khoảng 5 lần hoặc hơn. CROSS đã chứng minh sự cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong việc điều chỉnh sẹo icepick thứ phát sau mụn trứng cá. Hiệu quả là kết quả của quá trình  sản xuất colagen được kích thích và làm dày lớp da do TCA nồng độ cao gây ra. Việc áp dụng TCA tập trung chỉ cho các vùng bị sẹo hạn chế nguy cơ rối loạn sắc tố trong quy trình. Các nghiên cứu trên các loại da sẫm màu (đặc biệt là dân số Châu Á) đã chứng minh tính an toàn tuyệt vời. Ứng dụng TCA tập trung vào sẹo mụn giúp loại bỏ vùng da xung quanh bình thường và giúp giảm thiểu thời gian điều trị. Tuy nhiên, bệnh nhân nên được tư vấn về khả năng tăng sắc tố, mặc dù hiếm gặp, nếu TCA vô tình tiếp xúc với da bình thường.

Cách tiếp cận của tác giả

Khi tiếp cận một bệnh nhân bị mụn viêm nhẹ đến trung bình, các tác giả đưa ra ý tưởng sử dụng lột da hóa học như một liệu pháp bổ trợ sớm trong quá trình điều trị. Đối với những bệnh nhân điển hình bị mụn trứng cá nhẹ đến trung bình cần dùng thuốc toàn thân ngoài các phương pháp bôi ngoài da, có thể bắt đầu lột da bằng hóa chất ngay khi bệnh nhân mong muốn.Peel hóa học không nên là biện pháp cuối cùng, vì chúng có thể đẩy nhanh tiến độ cải thiện và có khả năng tránh được việc phải nâng cao “thang điều trị” của thuốc bôi và thuốc uống.. Mặc dù peel hóa học giá thành hợp lý, nhưng hầu như không hợp mức kinh tế của người bệnh, điều này là một rào cản. Nếu không có sự hướng dẫn của bác sĩ da liễu, nhiều bệnh nhân không nhận ra giá trị tài chính và lâm sàng của vỏ thuốc để điều trị mụn trứng cá của họ. Điều quan trọng là bác sĩ lâm sàng phải trình bày cho bệnh nhân tất cả các lựa chọn điều trị và hướng dẫn bệnh nhân trong quá trình ra quyết định. Đối với những bệnh nhân tiến hành điều trị lột da bằng hóa chất, việc tuân thủ các chế độ chăm sóc trước và sau phẫu thuật là bắt buộc (Table 10.2). Nhấn mạnh vào việc sử dụng kem chống nắng phổ rộng thường xuyên cả trước và sau khi lột.

Kem chống nắng gốc khoáng thường được lên men trước trong giai đoạn postpeel. Các tác giả không đề xuất lột da bằng hóa chất ở những bệnh nhân rám nắng hoặc sẽ ở trong một môi trường mà họ dự đoán tiếp xúc nắng hơn bình thường

Bảng mô tả chi tiết
Bảng mô tả chi tiết

(ví dụ: kì nghỉ hè)—thậm chí sử dụng peel nông với rủi ro thấp như nống độ thấp SA . Ngay lập tức trước peel, chúng ta nên điều trị hầu hết người bệnh kháng histamin ví dụ loratadin 10mg. Điều này giúp giảm đỏ da và sưng tấy. Người bệnh type da I và II theo Fitzpatrick nên được dừng retinol đường bôi ít nhất 2 ngày. Bệnh nhân type da tối màu hơn loại III trở lên thì nên dừng retinol và các sản phẩm bôi có khả năng kích ứng một tuần trước peel. Những người bệnh type da tối màu nên được được tẩy chất nhờn bằng alcohol 70% thay  aceton và cồn. Tẩy dầu trên da có thể làm giảm hiệu quả của quá trình peel da bằng cách hạn chế việc bong tróc, nhưng nguy cơ rối loạn sắc tố theo quy trình được giảm thiểu.

Những bệnh nhân đỏ da hay người muốn đạt kết  quả nhanh, chúng ta nên phối hợp nhiều biện pháp như Laser và peel hóa học. Nốt đỏ hay sẹo được laser đầu tiên với 595 nm pulsed-dye laser (PDL) (VBeam Perfecta, Syneron-Candela, Inc, Irvine, CA) được cài đặt 7 mm spot size, năng lượng 8 to 10 Joules, 6- to 10- millisecond pulse duration, chế độ làm lạnh 2, trước khi tiến hành peel. Cài đặt laser sẽ khác nhau tùy theo nhà sản xuất laser. Nếu không sử dụng được laser PDL hoặc nếu bệnh nhân có làn da sẫm màu hơn, có thể sử dụng laser Nd: YAG (1064 nm), laser Alexan-drite (755 nm) hoặc laser Nd: YAG bước sóng dài (1320 nm), bởi vì những tia laser này nhắm vào vi khuẩn P. acnes hoặc đốt nóng các tuyến bã nhờn bên dưới để giảm sản xuất dầu. Phác đồ kết hợp laser và peel da  hóa học này có thời gian nghỉ dưỡng tối thiểu và cũng có thể giúp tăng cường làm sạch mụn so với chỉ lột da bằng hóa chất.

Các tác giả thích SA vì tác dụng phụ thấp, dễ sử dụng và hiệu quả rõ ràng của nó đối với mụn trứng cá. Thông thường, hai đến ba lớp peel 30% SA được áp dụng cho toàn bộ khuôn mặt và để yên trong khoảng 6 phút. Khi kết tủa SA lần đầu tiên xuất hiện, các chế độ mát được áp dụng. Quạt cầm tay được sử dụng để ngăn chặn bất kỳ sự nóng rát hoặc khó chịu nào trong quy trình. Điều trị này được thực hiện 3 đến 4 tuần một lần khi bệnh nhân dung nạp và theo chỉ dẫn của phản ứng lâm sàng. Bệnh nhân điển hình cần ba buổi điều trị.

Sau peel, người bệnh được tư vấn trải qua mức độ đỏ da và bong da trong 3 đến 5 ngày ( dài hơn với tác nhân peel nặng hơn) Thuốc bôi triamcinolon 0.1% được áp dụng để giảm thiếu sự khó chịu và tình trạng viêm

Nếu bệnh nhân có phản ứng viêm quá mức với peel hóa học, nên sử dụng thêm thuốc bôi corticoid. Hiếm người bệnh gặp tình trạng này, thuốc uống corticoid ngắn ngày( methylprednisolon) có thể được sử dụng để giảm bong da hoặc phản ứng da quá mức, Đối với tất cả những bệnh nhân khó tính, việc chống nắng và tránh nắng là bắt buộc. Bệnh nhân được tiếp tục dùng thuốc trị mụn tại chỗ sau khi hoàn thành đợt lột da cấp tính (3–7 ngày sau khi lột). Bệnh nhân nhìn chung rất hài lòng với các liệu pháp lột da của họ, và nhiều bệnh nhân chọn tiếp tục lột da mặt bằng hóa chất không liên tục sau mỗi 4 đến 12 tuần để điều trị duy trì sau khi mụn trứng cá của họ được kiểm soát.

CÁC SỰ KIỆN CÓ LỢI VÀ CÂU HỎI ĐẶC BIỆT

Các bác sĩ lâm sàng nên biết về một  số tác dụng phụ có thể xảy ra và những lưu ý đặc biệt khi sử dụng lột da hóa học như một liệu pháp bổ trợ cho mụn trứng cá. Đầu tiên, lột da không được chỉ định cho những người bị mụn viêm nặng hoặc mụn trứng cá u nang. Lột da bằng hóa chất không hữu ích cho những bệnh nhân này vì chúng có thể gây ra đợt cấp của mụn trứng cá. Mặc dù lột da hóa học đã được chứng minh hiệu quả trong việc điều trị mụn trứng cá viêm nhẹ đến trung bình, nhưng chúng đặc biệt hữu ích trong việc giải quyết mụn trứng cá dạng mụn trứng cá không viêm.

Thông thường những bệnh nhân bị mụn trứng cá trên khuôn mặt cũng sẽ gặp vấn đề với mụn ở ngực hoặc lưng. Lột da hóa học bề ngoài cũng có thể được sử dụng trên khuôn mặt ở các vùng như cổ, ngực và lưng. Tuy nhiên, các tác giả lưu ý không nên sử dụng các phương pháp lột da mặt ở độ sâu trung bình hoặc sâu vì khả năng tái tạo ở những vùng này không tương đương với da mặt và dễ phát sinh biến chứng hơn. Các tác giả đề xuất sử dụng siêu lột da để điều trị mụn trứng cá trên cổ, ngực và lưng ở mọi người thuộc mọi loại da.

Nhiều bệnh nhân bị mụn trứng cá đang dùng thuốc nên được cân nhắc trước khi điều trị ban đầu bằng lột da bằng hóa chất. Doxycycline là một loại kháng sinh uống thông thường có đặc tính chống viêm được sử dụng cho những bệnh nhân bị mụn trứng cá. Tác dụng nhạy cảm ánh sáng của doxycycline càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ da trước và sau quy trình lột da để giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ tiềm ẩn — đặc biệt là tăng sắc tố sau viêm.

Đối với nhiều phụ nữ trưởng thành với mụn trứng cá nội tiết, thuốc tránh thai và / hoặc spiro-lacton có thể được sử dụng một cách an toàn cùng với lột da hóa học ngắt quãng để kiểm soát các triệu chứng. Tretinoin tại chỗ và các loại retinoid khác có thể làm tăng tác dụng của lột da hóa học nếu được sử dụng hàng đêm trong 6 tuần trước khi làm thủ thuật. Chúng tôi yêu cầu bệnh nhân ngừng sử dụng retinoid ít nhất 48 giờ trước khi lột da để hạn chế nguy cơ rối loạn sắc tố và sẹo liên quan đến sự thẩm thấu tăng cường của dung dịch peel.

Bệnh nhân da sẫm màu ngừng retinoid 7 ngày trước khi làm thủ thuật. Khi sử dụng isotretinoin đường uống để điều trị mụn trứng cá, về mặt lý thuyết, sự thu nhỏ của đơn vị tiêm mao mạch có thể cản trở quá trình tái tạo và chữa lành sau khi lột da bằng hóa chất . Về mặt lịch sử, một khuyến cáo chung là tránh bất kỳ can thiệp thủ tục nào, chẳng hạn như lột da bằng hóa chất, trong vòng 6 đến 12 tháng sau khi hoàn thành isotretinoin. Tuy nhiên, một đánh giá hệ thống gần đây và khuyến nghị đồng thuận kết  luận rằng không có bằng chứng cho thấy việc lột da cần phải trì hoãn và việc thực hiện lột da bề mặt trên bệnh nhân dùng isotretinoin có thể an toàn.

Cuối cùng, không lột da ở những bệnh nhân bị nhiễm virus simplex (HSV) trên khuôn mặt đang hoạt động. Ở những bệnh nhân có đợt bùng phát HSV thường xuyên, nên dùng thuốc kháng vi-rút dự phòng trong 1 tuần.

Kết luận

Peel hóa học khá hiệu quả, an toàn và mức chi phí thấp cho bệnh nhân bị mụn trứng cá thông thường. Đặc tính độc đáo của peel hóa học làm cho chúng rất  phù hợp để giải quyết các cơ chế bệnh sinh của mụn trứng cá. Khả năng làm tăng tác dụng của thuốc trị mụn tại chỗ có thể cho phép bệnh nhân tránh được các tác dụng phụ liên quan đến thuốc trị mụn toàn thân và trên thực tế có thể giúp giảm gánh nặng chi phí điều trị mụn cho hệ thống chăm sóc sức khỏe. Các bác sĩ lâm sàng nên tự làm quen với việc sử dụng peel da hóa học như một liệu pháp bổ trợ cho mụn trứng cá để họ có thể cung cấp cho bệnh nhân của mình một lựa chọn ít rủi ro, hiệu quả và tiết kiệm chi phí để có được làn da sạch mụn.

Tài liệu tham khảo

  1. Al-Talib H, Al-Khateeb A, Hameed A, Murugaiah C. Efficacy and safety of superficial chemical peeling in treatment of active acne vulgaris. An Bras Dermatol. 2017;92(2):212– 216. https://doi.org/10.1590/abd1806-4841.20175273.
  2. Atzori L, Brundu MA, Orru A, Biggio P. Glycolic acid peeling in the treatment of acne. J Eur Acad Dermatol Venereol. 1999;12(2):119–122. PubMed PMID: 10343939.
  3. Castillo DE, Keri JE. Chemical peels in the treatment of acne: patient selection and perspectives. Clin Cosmet Investig Dermatol. 2018;11:365–372. https://doi.org/10.2147/ CCID.S137788. eCollection 2018. Review. PubMed PMID: 30038512; PubMed Central PMCID: PMC6053170.
  4. Chen X, Wang S, Yang M, Li L. Chemical peels for acne vul- garis: a systematic review of randomized controlled trials. BMJ Open.
  5. 2018;8(4):e019607. https://doi.org/10.1136/ bmjopen-2017-019607. PubMed Central PMCID: PMC5931279 29705755.
  6. de Vries FMC, Meulendijks AM, Driessen RJB, van Dooren AA, Tjin EPM, van de Kerkhof PCM. The efficacy and safety of non-pharmacological therapies for the treatment of acne vul- garis: a systematic review and best-evidence synthesis. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2018;32(7):1195–1203. https://doi. org/10.1111/jdv.14881. Epub  2018  Mar 6. Review 29444375.
  7. Dréno B, Fischer TC, Perosino E, et al. Expert opinion: efficacy of superficial chemical peels in active acne man- agement—what can we learn from the literature today? Evidence- based recommendations. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2011;25(6):695–704. https://doi.org/10.1111/ j.1468-3083.2010.03852.x. Epub 2010 Oct 3. Review. PubMed PMID: 21029205. Jae J, Dong Ju H, Dong Hyun K, Yoon MS, Lee HJ, eds. Comparative studyof buffered 50% glycolic acid (pH 3.0) + 0.5% salicylic acid solution vs Jessner’s solution in patients with acne vulgaris. J Cosmet Dermatol. 2018;17(5):797–801. PubMed PMID: 29164826.
  8. Jartarkar SR, Gangadhar, et al. Single-blind, active controlled study tocompare the efficacy of salicylic acid and mandelic acid chemical peel in the treatment of mild to moderately severe acne vulgaris. Clin Dermatol Rev. 2017;1(1):15–18. Kaminaka C, Uede M, Matsunaka H, Furukawa F, Yamomoto
  9. Clinical evaluation of glycolic acid chemical peeling in patients with acne vulgaris: a randomized, double-blind, placebo-controlled, split-face comparative study. Der- matol Surg. 2014;40(3):314–322. https://doi.org/10.1111/
Ngày viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *