Bài viết Kỹ thuật tiêm chất làm đầy nếp gấp mũi môi – Tải file PDF Tại đây.
Tác giả: Bs. Trương Tấn Minh Vũ
Giới thiệu
Nếp mũi môi (nasolabial fold) bắt nguồn từ phía ngoài của cánh mũi và kết thúc ở phía ngoài của góc miệng từ 1 đến 2 cm. Cùng với quá trình lão hóa, tình trạng sụp tiến triển của mỡ vùng má và da phía trên góp phần làm nếp gấp sâu hơn, nhưng độ sâu cũng thay đổi tùy theo chủng tộc, giới tính, độ tuổi và cân nặng. Vùng trên của nếp gấp (tam giác quanh mũi) có hình dạng tam giác ngược và là phần sâu nhất của nếp gấp do quá trình tái cấu trúc xương của khoang hình lê và xương hàm trên.

Giải phẫu
Nếp mũi môi được cấp máu bởi động mạch mặt, một nhánh của động mạch cảnh ngoài. Sau khi chia thành các nhánh môi dưới và trên, động mạch mặt theo đường đi của nó trong vùng nếp mũi môi và chia thành nhánh vách ngăn cung cấp máu cho vách ngăn mũi và nhánh cánh mũi cung cấp máu cho cánh mũi. Sau khi chia thành hai nhánh này, động mạch mặt tiếp tục đi lên và chia thành nhánh mũi bên. Nhánh này cung cấp máu cho cánh mũi và sống mũi, và nối với bên đối diện, với các nhánh vách ngăn và cánh mũi, nhánh lưng mũi của động mạch mắt, và nhánh dưới ổ mắt của động mạch hàm trên. Do giải phẫu này, tiêm vào trong mạch hoặc chèn ép mạch máu từ bên ngoài là một trong những biến chứng có thể xảy ra khi tiêm chất làm đầy vùng này, biểu hiện lâm sàng là hoại tử cánh mũi và chóp mũi.
Trong một nghiên cứu của Yang và cộng sự, động mạch mặt được ghi nhận ở vùng nếp mũi môi trong 93,3% trường hợp. Trong 42,9% trường hợp nằm ở phía trong và 23,2% nằm ở phía ngoài nếp mũi môi. Trong các trường hợp còn lại, động mạch mặt đi qua nếp mũi môi ở phía trong hoặc phía ngoài.

nông (SFP). D. Sau khi loại bỏ da, SFP, phần ổ mắt của cơ vòng mắt (OM), cơ gò má, cơ cười và cơ mút.

mắt và ổ mắt của cơ vòng mắt (OM) và cơ gò má. B. Sau khi loại bỏ da, SFP, phần mi mắt và ổ mắt của
OM, lớp mỡ dưới cơ vòng mắt trong và ngoài (SOOF), cơ nâng môi trên, cơ gò má lớn và bé. C. Sau khi
loại bỏ cơ nâng môi trên, cánh mũi và cơ nâng góc miệng. D. Cấu trúc xương vùng nếp mũi môi.



bỏ da và SFP. Có thể nhìn thấy phần mi mắt và ổ mắt của cơ vòng mắt (OM), phần sau nằm trên các lớp mỡ
dưới cơ vòng mắt trong và ngoài (SOOF). Có thể nhìn thấy cơ nâng môi trên và cánh mũi, cũng như cơ nâng
góc miệng và các cơ gò má lớn và bé ở phía trên các lớp mỡ sâu (DFP). D. Sau khi loại bỏ phần ổ mắt của
OM, SOOF trong và ngoài, SFP và DFP. Một phần của lớp mỡ má (mỡ Bichat) có thể được nhìn thấy phía
trên cơ mút. E. Cấu trúc xương của vùng nếp gấp mũi môi.

ứng. B. Sự phân bố động mạch. C. Sự phân bố tĩnh mạch. D. Động mạch và tĩnh mạch tích hợp ở cơ trán, cơ
vòng mắt (OM), cơ mũi, cơ gò má lớn, cơ nâng môi, cơ mút và cơ cắn. E. Sự phân bố thần kinh.
Kỹ thuật tiêm
Tam giác quanh mũi có thể được làm đầy bằng HA qua lớp trung bì giữa hoặc lớp trung bì sâu, sử dụng kỹ thuật tiêm thụt lùi tuyến tính theo hình quạt. Trong trường hợp mất thể tích nghiêm trọng hơn, vùng dưới da và/hoặc khoang trên màng xương nên được làm đầy bằng cách sử dụng cannula hoặc kim. Trong trường hợp đó, đưa kim vào mặt phẳng sâu với góc 90°, hút kiểm tra và tiêm bolus tại chỗ.
Phần còn lại của nếp gấp có thể được làm đầy bằng cách tiêm thụt lùi hoặc tiến tới vào lớp trung bì sâu.
Kỹ thuật tiêm trong da
Xem hình 12.12, 12.13, 12.19 và 12.20.

mặt phẳng trong da. Đâm kim ở góc 30°. Có thể thực hiện cả hai phương pháp tiêm thụt lùi hoặc tiến tới.

được nhìn thấy qua da. B. Bên phải mẫu xác tươi với nếp gấp mũi môi được cắt và gấp lại để cho thấy vị trí
của kim trong mặt phẳng trong da, phía trên mô dưới da.

và rãnh tear trough bên trái. C. Sau khi điều trị các vùng nêu trên, vấn đề ở nếp mũi môi bên trái (NLF) vẫn
còn nên chúng tôi đã thực hiện tiêm chất làm đầy bằng kim vào mặt phẳng trong da.

Kỹ thuật dùng kim tiêm trên màng xương

bolus.

xanh). Sản phẩm được tiêm bằng kim vào mặt phẳng trên màng xương. B. Sản phẩm có màu xanh lá cây.
Kỹ thuật dùng cannula tiêm dưới da

màu hồng. B. Tiêm sản phẩm ở vùng dưới da. Có thể áp dụng một mũi tiêm thụt lùi hoặc tiến tới, cũng như
tiêm bolus trong khu vực lỗ hình lê.
Biến chứng
Các tác dụng phụ liên quan đến thủ thuật như tụ máu, ban đỏ, phù nề và nhạy cảm tại chỗ, sẽ tự khỏi trong vòng 7 đến 10 ngày. Tạo thành hình dạng dây thường do kỹ thuật không phù hợp, tiêm quá nông hoặc sử dụng vật liệu quá dày so với vị trí tiêm, có thể được loại bỏ bằng cách xoa bóp tại chỗ và/hoặc tiêm hyaluronidase. Biến chứng nghiêm trọng nhất là hoại tử mô do gián đoạn cung cấp máu, do tắc nghẽn mạch máu trực tiếp hoặc do chèn ép từ bên ngoài. Một vài giờ sau khi thực hiện thủ thuật, vùng bị thiếu máu cục bộ sẽ có biểu hiện màu tía, ban đỏ dạng lưới, và nếu không được điều trị kịp thời có thể tiến triển thành hoại tử và mất mô.3
Tài liệu tham khảo
- Shaw RB Jr, Katzel EB, Koltz PF, et al. Aging of the facial skeleton: aesthetic implications and rejuvenation strategies. Plast Reconstr Surg 2011;127(1):374-383
- Yang HM, Lee JG, Hu KS, et al. New anatomical insights on the course and branching patterns of the facial artery: clinical implications of injectable treatments to the nasolabial fold and nasojugal groove. Plast Reconstr Surg 2014;133(5):1077-1082
- Grunebaum LD, Bogdan Allemann I, Dayan S, Mandy S, Baumann L. The risk of alar necrosis associated with dermal filler injection. Dermatol Surg 2009; 35(2, Suppl 2):1635-1640