Do việc thiếu sự nhất trí về việc làm thế nào để định nghĩa tốt nhất về trứng cá đỏ và các nguyên nhân gây ra bệnh, các bác sĩ tập trung vào các triệu chứng và biểu hiện của nó thay vì nguyên nhân. Để điều trị, các bác sĩ thường kê đơn metronidazol thoa, steroid, dưỡng ẩm, các sản phẩm gốc sulfa, retinoid( thỉnh thoảng), và kháng sinh uống. Các bác sĩ cũng thường sử dụng laser hoặc IPL để giải quyết tình trạng hồng ban và liệu pháp quang động học ( PDT) để ức chế hoạt động của tuyến bã nhờn. Cách điều trị này chỉ đem lại hiệu quả nhất thời và ngắn hạn vì nó thất bại trong việc nhắm tới sự tăng sản của tuyến bã và các tổn thương rối loạn chức hàng rào bảo vệ da. Đi theo một kế hoạch điều trị thông minh, đồng thời với biện pháp “Phục hồi sức khỏe làn da”, giúp mang đến cho mỗi bệnh nhân cơ hội điều trị thành công và quản lý dài hạn bệnh. Kế hoạch điều trị này dựa trên những yếu tố chính sau: 1) Trứng cá đỏ không thể ngăn chặn hoặc chữa khỏi hoàn toàn, nhưng nó có thể được điều trị và kiểm soát, và có thể làm thuyên giảm những biểu hiện của nó; và 2) để điều trị thành công, cần phải xác định rõ mục tiêu và đích đến.
Trứng cá đỏ có thể làm trầm trọng thêm và góp phần làm việc điều trị các tình trạng da khác thất bại. Ví dụ, nám má sẽ không đáp ứng điều trị nếu trứng cá đỏ không được điều trị đồng thời.
Và cố gắng điều trị tình trạng hồng ban, giãn mạch bằng IPL hoặc laser mạch máu trước khi kiểm soát được trứng cá đỏ có thể làm nặng thêm tình trạng này. Cố gắng thực hiện bất kì thủ thuật nào trong khi vẫn còn trứng cá đỏ có thể dẫn đến bùng phát và nguy cơ cao xuất hiện biến chứng.
Các bước điều trị trứng cá đỏ
Trứng cá đỏ sớm, nhẹ( với ít thay đổi kết cấu da và mụn đang hoạt động) có đáp ứng với thuốc thoa và PDT. Trứng cá đỏ (với thay đổi kết cấu nặng và mụn) đòi hỏi điều trị tích cực với thuốc thoa và isotretinoin uống. Nếu isotretinoin có chống chỉ định, 1 liệu trình PDT kết hợp với thuốc thoa được khuyến cáo. Một vài thủ thuật khác như lột da bằng hóa chất, laser fractional C02 và một số loại laser khác cũng có thể được sử dụng.
Bước A. Điều trị tuyến bã nở rộng và quá hoạt để giảm tiết bã nhờn, giúp ức chế quá trình viêm và ngăn chặn breakout (sẩn và mụn mủ, nốt, nang) và ngăn chặn các tổn thường kết cấu. Để kết thúc, sử dụng 1 hoặc nhiều các liệu pháp sau:
- PDT (cho trường hợp nhẹ hơn)
- Isotretinoin( cho hiệu quả hơn và cho những trường hợp nặng)
- C02 fractional laser: ở những bệnh nhân muốn cải thiện kết cấu da, chúng tôi sử dụng laser CO2 trước, sau đó, ngay sau thủ thuật, cho bệnh nhân sử dụng isotretinoin liều thấp hằng ngày trong 5 tháng
Bước B: Cải thiện khả năng chịu đựng của da. Để phục hồi chức năng hàng rào bảo vệ da, bắt buộc phải sử dụng “Phục hồi sức khỏe làn da”( sửa chữa và ổn định).
Bước C: Điều trị PIH (tăng sắc tố sau viêm) và không đều màu do trứng cá đỏ. Có thể thực hiện “Phục hồi sức khỏe làn da” có HQ (bleaching và blending) hoặc không HQ.
Bước D: Làm dịu các phát ban dạng mụn và thu nhỏ lỗ chân lông. Cũng giống như điều trị mụn, sử dụng các biện pháp sau để nhắm tới mụn đầu trắng, mụn đầu đen, mụn mủ, nốt, nang:
- Để chuẩn bị cho da, bệnh nhân nên dùng sữa rửa mặt cho da dầu, tẩy da chết vậy lý bằng dạng hạt 1 lần hằng ngày để kích thích thay mới thượng bì và làm sạch sâu trong nang lông, sau đó sử dụng các sản phẩm thoa có tác dụng se khít để loại bỏ bã nhờn 2 lần / ngày.
Bác sĩ có thể cho thêm 1 hoặc nhiều các thành phần đặc trị sau đây, nếu cần:
- Benzoyl peroxide có tác dụng kháng khuẩn, giúp làm giảm viêm do trứng cá đỏ. Thành phần này có thể gây châm chích và hồng ban lúc ban đầu ở những bệnh nhân có rối loạn chức năng hàng rào bảo vệ da. Tuy nhiên, những phản ứng này không tồn tại lâu và sự cải thiện được nhìn thấy nhanh ở những bệnh nhân có trứng cá đỏ dạng hạt và phát ban dạng mụn.
- Retinoids: là đồng phân của vitamin A, giúp kích thích quá trình sửa chữa và giảm viêm..
- AHAs là cần thiết để đổi mới thượng bì.
- Metronidazole: là kháng sinh thuộc nhóm nitroimidazole, metronidazole (có thể thoa hoặc uống) diệt khuẩ
- Sodium sulfacetamide: là kháng sinh thoa, thường kết hợp với lưu huỳnh, có nhiều dạng(foams, washes, lotions), sử dụng cho mụn, trứng cá đỏ và tiết nhiều bã nhờn.
Bước E: Cải thiện kết cấu và màu sắc da. Để nhắm tới kết cấu da (lỗ chân lông giãn rộng, tăng sản tuyến bã và u tuyến), sử dụng kích thích tăng sinh mạnh (tretinoin) và một vài thủ thuật như lột da hóa chất, PDT, hoặc laser fractionation. Nhưng để loại bỏ đỏ da- không đáp ứng tốt với laser, thì cần ức chế phản ứng viêm của da (xem bước A). Giãn mạch, biểu hiện bởi sự tăng sinh và giãn rộng của các mạch máu nhỏ, chỉ đáp ứng với laser mạch máu.
Bước F: Sử dụng kháng sinh toàn thân. Kháng sinh uống (tetracycline và đồng phân của nó) không có nhều giá trị trong điều trị trứng cá đỏ. Bởi vì vi khuẩn đóng vai trò tối thiểu trong trứng cá đỏ, phản ứng viêm do vi khuẩn giảm khi dùng kháng sinh không có nhiều lợi ích và thành phần này không nên dùng kéo dài vì liên quan tới vi khuẩn kháng thuốc và các tác dụng phụ khác.
Quản lý thủ thuật: Lựa chọn và thời gian điều trị
Lựa chọn và thời gian sử dụng thủ thuật phải dựa trên từng dấu hiệu và triệu chứng của trứng cá đỏ (Bảng 6.5), cũng như sự ưu tiên của bệnh nhân. Sự ưu tiên của bệnh nhân chỉ là một phần của kế hoạch điều trị khi có sử dụng isotretinoin. Khi bệnh nhân mong muốn có sự cải thiện nhanh trong thời gian ngắn thì protocol nhanh được yêu thích hơn. Nhưng nếu bệnh nhân chỉ muốn cải thiện về trứng cá đỏ , mà không có về mặt thẩm mỹ thì protocol chậm được yêu thích hơn.
Protocol điều trị trứng cá đỏ
Protocol nhanh Protocol nhanh (Bảng 6.6) cho phép bệnh nhân cải thiện vẻ bề ngoài và cấu trúc của da bằng các thủ thuật, như C02 frac-tional laser hoặc 26% tới 28% TCA peel (Z0 Controlled Depth Peel tới lớp bì lưới [IRD]), ngay khi da bệnh nhân sẵn sàng để làm (chống chỉ định các thủ thuật xâm lấn khi da đang có trứng cá đỏ đang hoạt động), bắt đầu với chuẩn bị da từ 1-2 KMCs (6-12 tuần). Khi da đã sẵn sàng và trứng cá đỏ đã được kiểm soát thì thực hiện các thủ thuật. Đợi 8-10 ngày để da bệnh nhân lành hoàn toàn sau thủ thuật. Sau đó, bắt đầu lại các thuốc thoa và uống isotretinoin hằng ngày trong 5 tháng (thường 20 mg/ngày). Phương pháp nhanh được yêu thích hơn vì tiết kiệm thời gian, đạt được sự cải thiện cả về bệnh và mặt thẩm mỹ cùng lúc, và sử dụng isotretinoin sau thủ thuật.
*Điều trị da ít nhất 6 tuần với thuốc thoa để làm ổn định chức năng hàng rào bảo vệ da và tế bào hắc tố trước bất cứ điều trị ánh sáng hoặc năng lượng nào (bao gồm IPL và laser) để đạt được kết quả tống quan tốt nhất. Điều này là rất quan trọng, đặc biệt ở bệnh nhân có nguy cơ tăng sắc tố sau viêm.
Protocol chậm: Đầu tiên, ức chế bệnh bằng thuốc thoa và uống isotretinoin trong 3 KMCs (5 tháng) (Bảng 6.7). Sau đó, ngưng isotretinoin và tiếp tục duy trì bằng thuốc thoa. Tiếp tục theo chế độ này trong 3 KMCs (5 tháng) để loại bỏ hiệu ứng còn lại của isotretinoin- cái mà có thể dẫn đến kết quả dưới mong đợi của thủ thuật, các thủ thuật lúc này có thể thực hiện an toàn (CO2 fractional laser hoặc zo Controlled Depth Peel). Nếu trứng cá đỏ tái hoạt sau thủ thuật, thì việc cho thêm isotretinoin là cần thiết.
Nguồn tham khảo: The art of Skin Health Restoration and Rejuration
Biên dịch bởi: Tapchidalieu.com
Link bài viết:https://tapchidalieu.com/dieu-tri-trung-ca-do/